Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Trở lại danh sách Đăng bài-----
Xem: 4136|Trả lời: 0

Tôi Muốn Là Cơ Đốc Nhân

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 26-7-2011 19:01:39 | Xem tất |Chế độ đọc

Dâng hiến cho công việc Chúa

Tôi Muốn Là Cơ Đốc Nhân
Tác giả: J. I. Packer

DẪN NHẬP
Động cơ thúc đẩy tôi viết quyển “Tôi muốn làm Cơ Đốc nhân” này là để cung cấp một sách giáo khoa, đúng hơn là một quyển sách làm tài liệu cho các nhóm học tập, cũng là một giáo trình tự học giáo lý cho những người lớn tuổi không thể tham gia học nhóm. Từ quan điểm ấy đây là quyển đi kèm với quyển sách nhan đề “Nhận biết Đức Chúa Trời” (Knowing God, 1972) của tôi, đã được các nhóm thảo luận sử dụng rộng rãi. Sách đưa ra một loạt các bố cục ngắn gọn - những “toát yếu” - gồm các câu hỏi và những đoạn Kinh Thánh để nghiên cứu thêm, gồm nội dung của ba công thức luôn luôn được xem là tâm điểm của công tác giáo dục giáo lý Cơ Đốc, tức là Bản Tín Điều, Bài Cầu Nguyện Chung và Mười Điều Răn, cộng với Phép Báp-tem theo Cơ Đốc giáo. Ba công thức này đề cập niềm tin quyết của Cơ Đốc nhân, cầu nguyện tương giao với Đức Chúa Trời, và về nếp sống đạo; phép Báp-tem, công tác giáo dục vào thời Cơ Đốc giáo nguyên thủy là phần chuẩn bị, đề cập việc lập giao ước của Đức Chúa Trời, việc Cơ Đốc nhân ăn năn quy đạo, dấn thân tận hiến, và sinh hoạt trong Hội Thánh.
Phép Báp-tem được đặt trong vị trí hợp lý là phần thứ hai của quyển sách, ngay sau phần nghiên cứu của chúng ta về đức tin, Cơ Đốc nhân nhận phép Báp-tem để bước vào nếp sống đạo, tiếp theo là những suy gẫm về sự cầu nguyện và vâng lời của chúng ta để bày tỏ một đời sống làm môn đệ của Chúa. Ngoài ba phần phải đề cập những hiểu lầm trong lịch sử về Bài Tín Điều và Phúc âm của giáo hội Công giáo La mã (những hiểu lầm mà các thần học gia Công giáo La mã hiện đang khổ công tìm cách vượt thoát), quyển sách tài liệu này của tôi được dành cho các vấn đề tôi tin nên được gọi là “Cơ Đốc giáo đơn thuần” ("Mere Christianity” theo cách nói của Richard Baxter cũng được C.S.Lewis dùng lại); và tôi mong rằng quyển sách này sẽ được các Hội Thánh đã nêu cao gương đức tin trải qua lịch sử và sử dụng rộng rãi.
Các “toát yếu” viết thật cô đọng kèm theo phần gợi ý trong phạm vi tôi có thể sắp xếp được, chỉ là phần khai tâm hầu giúp các bạn khởi đầu để thảo luận và suy nghĩ; còn về bất luận điều gì có thể để nghiên cứu từng chủ đề ngay trên lãnh vực giáo lý mà thôi, quý độc giả phải tiếp tục theo các câu hỏi và nghiên cứu Kinh Thánh.
Giải lý (catechism) một từ ngữ gốc Hi văn, có nghĩa là “khiến phải nghe”, do đó, có nghĩa “chỉ giáo”, và trong Hội Thánh, đã có những danh từ sách giáo lý, người học giáo lý, động từ dạy trưởng thành giáo lý, qua các phương pháp được hình thành sau này theo lối vấn đáp, dùng các câu hỏi để dần dần nâng cao phần trí tuệ của người được dạy dỗ, giáo huấn. Chúng ta đọc thấy trong Công vụ các sứ đồ chương 8 cách thức sứ đồ Philíp đã chỉ dạy cho viên hoạn quan người Ê-thi-ô-bi; như thế, “dạy giáo lý” chính là một tiến trình được Kinh Thánh thiết lập và quy định.
Chẳng hề có ai tin nhận Cơ Đốc giáo theo bản năng hay tình cờ, ngẫu nhiên theo đạo chẳng cần phải cố gắng, nỗ lực. Cơ Đốc giáo là một đạo cần phải học hỏi, rèn tập, do đó, cần được dạy dỗ, chỉ bảo; cho nên sách giáo lý, công tác dạy giáo lý là một thành phần thiết yếu của sinh hoạt Hội Thánh.
Trong các thế kỷ Cơ Đốc giáo đầu tiên, đã có nhiều lượt người ăn năn quy đạo và tìm hiểu Cơ Đốc giáo, và công tác dạy giáo lý mặc lấy hình thức những buổi thuyết giảng tùy theo trình độ của họ. Tuy nhiên, chiến lược phục hồi sinh lực cho Cơ Đốc giáo (mà sự dốt nát về Cơ Đốc giáo đã dẫn họ đến) của các nhà Cải Chánh, chỉ tập trung vào việc dạy giáo lý cho trẻ con mà thôi. Suốt một thế kỷ rưỡi sau quyển sách tiền phong của Luther nhan đề Sách giáo lý nhỏ (The Little Catechism) ra đời năm 1529, người ta đã cho phát hành hàng mấy trăm quyển giáo lý khác, phần lớn tuy không chỉ dành riêng cho giới trẻ mà thôi, một số các tài liệu chính thức của Hội Thánh, nhiều sách khác là những sách do cá nhân các giáo phẩm biên soạn. Các sách như thế và được nổi tiếng hơn hết, là sách giáo lý Cầu nguyện của Anh quốc giáo, sách giáo lý Heidelberg, và sách giáo lý Westminster ngắn hơn. Hầu như phần đông các giáo hội Tin Lành ngày nay đều dành riêng các sách giáo lý kết hợp với việc giáo
dục trẻ mà thôi, không hề nghĩ đến những câu giới thiệu giáo lý Cơ Đốc của các quyển sách như Cơ Đốc giáo đơn thuần (Mere Christianity) của C.S.Lewis, Bình an trong Thượng đế (Peace with God) của Billy Graham, hay Cơ Đốc giáo căn bản (Basic Christianity) của John Stott, hoặc Chính thống giáo (Orhodoxy) của G.H.Chesterton, không xem các sách ấy là sách giáo lý, vì chúng dành cho người lớn. Nhưng vì các sách ấy nhằm mục đích dạy cho những người ngoài và gây dựng cho những người trong Hội Thánh (chân lý) căn bản của đạo, thật ra là giáo lý của đạo.
Hiện nay, có một nhu cầu rất lớn là phục hưng việc dạy giáo lý cho người lớn. không cần thiết phải có tên gọi, hay sử dụng phần hình thức của các công thức cứng nhắc vấn đáp như trước đây, là phương pháp dạy giáo lý từ ngàn xưa của các giáo hội Tin Lành; nhưng dầu sao cũng phải tạo nhiều cơ hội khác nữa cho mọi người cả bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh, khảo xét các chân lý thiết yếu của Cơ Đốc giáo, vì số người có nhu cầu sơ khởi ấy rất đông đảo. Việc giảng dạy không giúp ích cho họ, vì thông thường, việc ấy dành riêng cho cả người giảng lẫn kẻ nghe đã tin quyết vào những đều căn bản của đạo rồi; cho nên chỗ thiếu sót của các bài giảng bị cho là xa vời có khi còn gây bực tức nữa, vì những gì chúng ta quyết đoán có vẻ như thiếu tra xét, thách đố và thử nghiệm con người trí thức. Phần ABC (các giáo lý sơ đẳng) của Cơ Đốc giáo dạy từ tòa giảng, mà chỉ được nói lên trong những buổi dạy giáo lý mà thôi - ít ra đó cũng là điều lịch sử Cơ Đốc giáo gợi ý.
Lý thuyết giáo dục hiện đại rất chú trọng trong việc tìm tòi, khám phá của cá nhân, và việc thảo luận từng nhóm, cho nên chẳng có lý do gì để việc dạy giáo lý cho người lớn ngày nay không lợi dụng hình thức ấy - dĩ nhiên tốt nhất nếu làm được như vậy, miễn là chúng ta nhớ rằng Cơ Đốc giáo có một nội dung nhất định và liên tục, chớ không phải là một ẩn số “X”, một phẩm chất bất định, có thể được từng thế hệ bàn cãi để thêm bớt và sắp đặt lại. Câu chuyện đùa của C.H.Spurgem về một người Ái-nhĩ-lan, khi được hỏi ông ta cảm thấy như thế nào khi nhóm lại với hội Anh em Plymouth, ông đã trả lời: “vui lắm; chẳng có ai trong chúng tôi biết gì cả, và chúng tôi dạy bảo lẫn cho nhau”, có sự dạy dỗ cho chúng ta ở đây. Có thể đó là một câu chuyện chế nhạo phong trào anh em cận đại, nhưng người ta biết có những nhóm tự xưng là Cơ Đốc nhân, cũng tự khoe mình đang nghiên cứu các giáo lý căn bản của Cơ Đốc giáo, mà câu chuyện
trên đây là một lời giải thích rất đúng. Tuy nhiên, có những nhóm nghiên cứu được hướng dẫn về các giáo lý Cơ Đốc Căn bản của một số các chi hội mà tôi được biết vẫn tiếp tục từ năm này sang năm khác và đã tạo được sự phục hưng thật sự và vô cùng cần thiết trong việc dạy giáo lý, và tôi chưa hề thấy có chi hội nào đã không được bổ ích nhờ phần dẫn nhập đó của họ.
Nếu không được vạch rõ khác đi, những câu trích dẫn trong sách này là theo các bản Revised Standard Version (RSV), JB là The Jerusalem Bible, NEB là New English Bible, và Phillips là J.B.Phillips.
Tôi phải cám ơn nhà xuất bản vì đã thường xuyên khích lệ tôi và nhất là đã giúp tôi trong việc soạn thảo các câu hỏi.

CHA, CON VÀ THÁNH LINH: BÀI TÍN ĐIỀU CÁC SỨ ĐỒ
Tôi tin Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha, là Đấng dựng nên trời đất; Tôi tin
Giê-Xu Christ là Con độc sanh của Đức Chúa Trời và là Chúa chúng ta. Ngài
được đầu thai (thai dựng) bởi Đức Thánh Linh, sanh bởi nữ đồng trinh Mari,
chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ Philát, bị đóng đinh trên thập tự giá, chịu
chết và chôn, Ngài xuống âm phủ; đến ngày thứ ba, Ngài từ kẻ chết sống lại,
Ngài thăng thiên, ngồi bên hữu Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha; từ đó, Ngài sẽ
trở lại để xét đoán kẻ sống và chết. Tôi tin Đức Thánh Linh; tôi tin Hội
Thánh phổ thông; sự cảm thông của thánh đồ; sự tha tội, sự sống lại của thân
thể và sự sống đời đời.
TỰA
Nếu bạn dự tính du lịch bằng đường bộ, bạn cần có một tấm bản đồ. Có nhiều loại bản đồ. Có loại bản đồ có tỉ lệ xích nhỏ, ghi ra tất cả các lối đi, bụi rậm, các con dốc và v.v.., thật chi tiết. Vì khách bộ hành cần được thông tin đầy đủ nhất về con đường mình đã chọn đi, người ấy phải có một tấm bản đồ thuộc loại như thế. Nhưng nếu muốn lựa chọn một lộ trình, người ấy có thể được biết nhiều hơn nhờ một tấm bản đồ có tỷ lệ xích lớn, cho thấy cả một vùng địa lý chi tiết hơn, người ấy sẽ thấy nhiều con đường, nhiều lối tắt nối liền địa điểm này với địa điểm khác gần hơn. Muốn chuẩn bị sẵn sàng những người đi bộ cần đến cả hai loại bản đồ vừa kể.
Nếu đời là một cuộc đi bộ thì hàng triệu chữ trong Kinh Thánh là một tấm bản đồ có tỷ lệ xích nhỏ, đầy đủ mọi chi tiết; còn Bài Tín Điều các sứ đồ (sở dĩ gọi như vậy vì bài ấy do các sứ đồ viết ra - mặc dầu có những truyền thuyết về sau này, họ không hề viết ra bài ấy - mà vì bài Tín Điều ấy dạy các giáo lý của các sứ đồ) chỉ gần trên dưới một trăm chữ là một tấm bản đồ đã giản dị hóa con đường bộ qua rất nhiều điều, nhưng có thể giúp bạn chỉ cần nhìn thoáng cũng đủ biết các điểm chính của niềm tin Cơ Đốc. Tín là tin; người theo Anh quốc giáo xưa kia thường gọi bài này là Niềm Tin, còn ở thế kỷ thứ hai, khi Bài Tín Điều xuất hiện lần đầu tiên gần như bài chúng ta có ngày nay, được gọi là Luật Đạo.
Khi người ta muốn tìm hiểu về Cơ Đốc giáo, tự nhiên những người dẫn dắt cần hướng dẫn họ nghiên cứu Kinh Thánh đưa họ đến chỗ tin nhận Đấng Christ hằng sống làm Cứu Chúa của chính mình ngay, làm như thế rất đúng. Nhưng muốn giải quyết cả hai điều phải nhờ đến Bài Tín Điều với cả hai tư cách, vừa là phần định hướng sơ khởi về Kinh Thánh, vừa là phần phân tích đầu tay về các niềm tin làm nền tảng cho đức tin đặt nơi Đấng Christ.
Các niềm tin này được đặt trên nền tảng Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Bài Tín Điều cho chúng ta biết về Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh để khi đã tìm biết được về cả Ba Ngôi ấy, tức chúng ta đã được kinh nghiệm. Sách cầu nguyện giáo lý trả lời cho câu hỏi: Bạn học biết được gì từ Bài tín Điều - tức là “Các điều khoản Niềm Tin của bạn” - như sau:
Thứ nhất: tôi học biết để tin Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời, là Đấng tạo ra tôi và cả thế gian này.
Thứ hai: tin Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đấng đã mua chuộc tôi và toàn thể nhân loại.
Thứ ba: Tin Đức Thánh Linh là Đức Chúa Trời, Đấng đã thánh hóa tôi và toàn thể tuyển dân của Đức Chúa Trời”.
Một khi đã học biết được như vậy, người ta không còn xa mấy với nước Đức Chúa Trời nữa.
“Yếu tính của tri thức một khi đã có rồi, hãy áp dụng nó” không có ở đâu, công thức trên đây của Khổng Tử lại đúng hơn trong Cơ Đốc giáo, nơi một khi chân tri thức (trí thức về Đức Chúa Trời chân thật) là sự nhận biết về Đức Chúa Trời được áp dụng. Hiểu biết về Đức Chúa Trời để áp dụng là những gì sẽ được nêu ra, trong những phần nghiên cứu tiếp theo.
TÔI TIN ĐỨC CHÚA TRỜI
Khi được hỏi bạn tin gì, nhiều người trả lời chẳng những khác nhau, mà còn nhiều loại khác nhau nữa. “Tôi tin có Thần Linh” là họ có ý bảo tôi nghĩ là thần linh có thật. “Tôi tin chủ nghĩa xã hội” - nghĩa là tôi tin rằng các nguyên tắc của xã hội chủ nghĩa là công bằng và có lợi. Nhưng điều đó có nghĩa gì khi toàn thể các hội chúng Anh quốc giáo, các giáo hội theo Luther, Trưởng lão, Giám lý, Công giáo La mã, và chính thống giáo đều đồng thanh nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời”? Điều này có ý nghĩa hơn đối tượng để tin tưởng là thần linh hay xã hội chủ nghĩa rất nhiều.
Tôi có thể tin có thần linh nhưng không cần săn bắt cho được một vị; và có thể tin vào chủ nghĩa xã hội nhưng không cần phải đầu phiếu cho đảng ấy. Trong các trường hợp đó, tin chỉ là một vấn đề của trí tuệ. Nhưng Bài Tín Điều bắt đầu bằng câu “Tôi tin Đức Chúa Trời” được dịch ra từ câu Hi văn do các trước giả Tân Ước viết, theo nghĩa đen là": “Tôi đang tin cậy vào Đức Chúa Trời”. Câu này có nghĩa là vượt trên tất cả các niềm tin vào một chân lý nào đó về Đức Chúa Trời, tôi đang sống bằng mối liên hệ tận hiến cho Đức Chúa Trời trong sự tin cậy phó thác và kết hợp làm một với Ngài. Khi tôi nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời” là tôi xưng nhận niềm tin quả quyết của tôi rằng Đức Chúa Trời đã mời gọi tôi vào sự dấn thân ấy, và công bố rằng tôi đã chấp nhận lời mời gọi đó.
ĐỨC TIN
Từ ngữ đức tin (faith) là do danh từ Hi văn Pistis của động từ trong câu “tin nơi” (pisteuo) nói lên ý niệm về lòng tin cậy kết hợp, mạnh hơn là “tin” (belief) trong khi “tin” (belief) chỉ gợi lên ý kiến suông, thì “đức tin” cho dù vào một chiếc xe hơi, một thứ thuốc, một người đỡ đầu, một ông bác sĩ, người bạn đời hay bất luận điều gì bạn có, cũng đều là vấn đề xem người hay vật đáng tin cậy để bạn phó thác, hiến thân. Điều này cũng đúng với đức tin bạn đặt nơi Đức Chúa Trời, nhưng còn có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn.
Chính việc đối tượng ban phát hay đòi hỏi xác định trong từng trường hợp, đức tin dấn thân bao gồm những gì. Chẳng hạn, tôi bày tỏ đức tin vào chiếc xe hơi của tôi bằng cách trông cậy vào nó đưa tôi tới chỗ này chỗ nọ; tôi có đức tin vào ông bác sĩ của tôi bằng cách chịu để cho ông ta chữa bệnh cho tôi. Và tôi bày tỏ đức tin của mình vào Đức Chúa Trời bằng việc sắp mình xuống trước đòi hỏi của Ngài muốn cai trị và điều khiển mọi việc của tôi, bằng việc tin nhận Chúa Cứu thế Giê-Xu, Con Ngài làm Chúa và Cứu Chúa của tôi, và bằng việc trông cậy vào lời hứa của Ngài ban phước cho tôi trong đời này và cả đời sau nữa. Đây là ý nghĩa của việc đáp ứng những gì Đức Chúa Trời của Bài Tín Điều ban cho và đòi hỏi.
Có khi đức tin còn được xem ngang hàng với ý thức về “một Đấng ở trên cao” (hay “siêu vượt” hoặc “ở ngay trung tâm mọi sự") thỉnh thoảng, bằng cách xâm nhập cõi thiên nhiên, khoa học, đại nghệ thuật, sự “phải lòng” hoặc bằng bất kỳ cách nào khác, chạm đến tấm lòng những kẻ chai đá nhất (cho dù họ có quan tâm đến việc ấy hay không lại là một vấn đề khác nhưng việc ấy vẫn xảy đến với tất cả mọi người - đó là phần việc Đức Chúa Trời). Nhưng đức tin Cơ Đốc nhân chỉ bắt đầu khi chúng ta đến ra mắt Đức Chúa Trời, Đấng đã tự bày tỏ mình trong Chúa Cứu thế của Kinh điển, nơi chúng ta gặp Ngài với tư cách Đấng Tạo Hóa “bảo mọi người trong mọi nơi đều phải ăn năn” phải tin đến danh Con Ngài là Chúa Cứu thế Giê-Xu...như Ngài đã truyền dạy ta” (Cong Cv 17:30 IGi1Ga 3:23 đối chiếu GiGa 6:28 và tt). Đức tin Cơ Đốc nhân có nghĩa là lắng nghe, ghi nhận và làm theo những gì Đức Chúa Trời phán dạy.
NGHI NGỜ.
Dường như sự mặc khải của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh chính là chân lý và thẩm quyền hiển nhiên, và nói cho cùng tôi cũng tin thật như vậy; nhưng tôi biết như bạn, các quan niệm đã có sẵn và các định kiến chưa được đem ra phê phán đều tạo ra nhiều vấn đề cho mọi người chúng ta, và nhiều người có những nghi ngờ những thắc mắc sâu xa về các thành tố trong một bài giảng Kinh Thánh. Những nghi ngờ đó liên hệ với đức tin như thế nào?
Vậy, nghi ngờ là gì? Đó là một tình trạng “phân tâm” theo quan niệm của Giacơ (Gia Gc 1:6-8), và nó có cả bên trong lẫn bên ngoài đức tin. Trong trường hợp trước, đức tin bị nhiễm độc, bệnh hoạn, không còn dùng được nữa; ở trường hợp sau, nó thuộc về một cuộc chiến đấu, hoặc là hướng về đứa tin, hoặc xa lìa một Đức Chúa Trời được cảm thấy là muốn lấn át và đòi hỏi điều ta không bằng lòng đáp ứng. Trong quyển tự thuật tiểu sử thuộc linh của C.S.Lewis nhan đề Kinh ngạc vì niềm vui (Suprised by Joy), bạn có thể quan sát thấy cả hai động cơ thúc đẩy liên tục đó.
Trong những mối nghi ngờ của mình, chúng ta vẫn tưởng mình thành thật, và chắc chắn cũng cố gắng để tỏ ra thành thật. Nhưng sự thành thật hoàn toàn vượt khỏi tầm tay chúng ta khi còn sống trên đời này, và việc không thừa nhận mình không sẵn sàng tin vào lời Đức Chúa Trời về việc này việc nọ, dầu được cho là suy diễn việc học hỏi nghiên cứu, hay sợ bị chê cười hoặc do quá muốn hay do bất cứ một động cơ thúc đẩy nào khác, đều thường ẩn bên dưới mối nghi ngờ của một người về khoản mục này hay một khoản khác của đức tin. Khi hồi tưởng các sự việc nhiều lần, sẽ thấy rõ ràng, tuy ngay lúc ấy chúng ta chưa thấy được.
Làm sao để giúp đỡ những người nghi ngờ? Trước hết? bằng cách giải thích lãnh vực có vấn đề (vì nghi ngờ thường nảy sinh do hiểu lầm); thứ hai, bằng cách trình bày tính cách hữu lý của niềm tin Cơ Đốc giáo về điểm đó, và các nền tảng để chấp nhận (vì các niềm tin Cơ Đốc nhân tuy có siêu lý (vượt trên lý trí) vẫn không hề chống lại, phản lại lý trí, lẽ phải); thứ ba, bằng cách tìm xem điều gì đã nảy sinh nghi ngờ (vì sự nghi ngờ không do lý trí thúc đẩy, và những điều chưa rõ về Cơ Đốc giáo chẳng có gì khác hơn kẻ nghi ngờ ý thức được việc thích hay không thích, bị chạm tự ái, thái độ tự tôn xã hội, trí thức và văn hóa.
CÁ NHÂN.
Trong giờ thờ phượng, Bài Tín Điều được đọc chung, nhưng mấy lời mở đầu là: “Tôi (chớ không phải “chúng tôi") tin”; mỗi người thờ phượng tự nói lên câu ấy cho riêng mình. Như thế, người ấy tự công bố triết lý nhân sinh của mình đồng thời chứng thực cho hạnh phúc của mình: người ấy được nằm trong tay của Đức Chúa Trời là nơi người ấy rất vui mừng, và khi nói “Tôi tin” đó là một hành động ca ngợi tán tụng và cảm tạ của chính mình. Thật ra, đọc được Bài Tín Điều là cả một việc quan trọng.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức tin biến thành hành động: RoRm 4:1-25 HeDt 11:1-40 Mac Mc 5:25-34
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN.
1. Nghĩa chính của “đức tin” (Hi văn pitis) là gì?
2. Chữ “Tôi” mở đầu Bài Tín Điều quan trọng như thế nào?
3. Những mối nghi ngờ đối với Cơ Đốc giáo của bạn và người khác mà bạn phải giải quyết là gì? Theo bạn nghĩ, phương pháp giải quyết của tác giả sách này có đầy đủ không?
ĐỨC CHÚA TRỜI - ĐẤNG TÔI TIN
Khi chúng ta đứng giữa Hội Thánh và nói rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời”, điều đó có nghĩa gì? Khi nói như vậy, phải chăng chúng ta cũng chỉ đồng thanh với người Do thái, người Hồi giáo và nhiều người chống vô thần chủ nghĩa khác để tuyên bố có một Đức Chúa Trời (Thượng đế, Thần) phân biệt với chẳng có Đức Chúa Trời (Thượng đế, Thần) nào cả? Không, chúng ta vượt xa điều đó. Chúng ta đang xưng nhận đức tin nơi Đức Chúa Trời của chính Bài Tín Điều là Đức Chúa Trời của Cơ Đốc giáo, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao mà “danh theo Cơ Đốc giáo” của Ngài - theo như Karl Barth gọi - là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh. Nếu đó không phải là Đức Chúa Trời Đấng chúng ta tin, chúng ta sẽ chẳng bận tâm đọc Bài Tín Điều làm gì.
THẦN TƯỢNG
Chúng ta phải phân biệt điểm này. Ý niệm hiện đại cho rằng điểm phân biệt quan trọng là giữa những người nói “Tôi tin Đức Chúa Trời” theo một ý nghĩa nào đó, với những kẻ không chịu nói như vậy theo một ý nghĩa nào đó. Người ta xem vô thần chủ nghĩa mới là kẻ thù của mình, còn ngoại giáo thì không, và người ta quyết đoán chỗ khác nhau giữa đạo (đức tin) này với đạo (đức tin) nọ thì là thứ yếu. Nhưng trong Kinh Thánh, điểm phân biệt rõ ràng là giữa người tin Đức Chúa Trời của Cơ Đốc giáo với những kẻ phục vụ các thần tượng - tức là các “thần” đó là hình tượng dầu bằng kim khí hay chỉ có trong tinh thần, đều không thể so sánh được với Đấng Tạo Hóa tự-bày-tỏ-mình. Cho nên mong rằng số người đọc “Tôi tin Đức Chúa Trời”, trong nhà thờ mỗi Chúa nhật cũng biết rõ điều họ thật sự muốn nói lên có nghĩa là “Tôi không tin thần tượng (god, idod) cũng là Đức Chúa Trời” nữa.
DANH NGÀI
Kinh Thánh cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đã mặc khải, tự bày tỏ mình, tự xác lập “lai lịch” của mình (theo như cách người ta vẫn hay nói) bằng cách nói cho chúng ta biết “danh” Ngài. “Danh” này xuất hiện ở ba chỗ.
Thứ nhất , Đức Chúa Trời xưng “tên riêng” của Ngài là GIÊ-HÔ-VA (hay Jahweh như các học giả ngày nay thích gọi) cho Môise tại bụi gai cháy (XuXh 3:13 và tt; cũng xem 6:3). Tên này có nghĩa là “Ta tự hữu” hoặc “Ta hằng hữu” (xem bản RSV, cả văn bản chính lẫn ghi chú bên lề). Nó công bố toàn tính năng của Đức Chúa Trời: Con người không thể nào che giấu sự thực hữu của Ngài, cũng không thể ngăn chặn được đều Ngài muốn làm. Các dịch giả bản Authorized Version (AV) có lý khi dịch danh này là CHÚA (LORD). Bài Tín Điều nhấn mạnh tiếng vang ấy khi nói rằng Đức Chúa Trời Toàn năng là Cha.
Thứ hai , Đức Chúa Trời “công bố danh Đức Giêhôva” cho Môise để nhấn mạnh mỹ đức của Ngài - Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thật, ban ơn đến ngàn đời, xá đều gian ác, tội trọng và tội lỗi; nhưng chẳng kể có tội là vô tội...” (XuXh 34:5-7). Danh này - bạn có thể thấy có một phần mô tả bằng mặc khải - tiết lộ cả bản tính lẫn vai trò của Đức Chúa Trời. Đây là một lời công bố tiếng vang của nó xuyên suốt Kinh Thánh (xem XuXh 20:5 và tt; Dan Ds 14:18 IISu 2Sb 30:9 NeNe 1:5 9:17,32 Thi Tv 86:5,15 103:8-18 111:4-9 112:4 116:5 145:8,17,20 Gio Ge 2:13 Gion Gn 4:2 RoRm 2:2-6), và tất cả các hành động của Đức Chúa Trời Kinh điển ghi lại đều xác nhận và minh họa cho chân lý đó. Cần lưu ý khi Giăng nhấn mạnh hai phương diện đặc tính của Đức Chúa Trời bằng cách bảo rằng Ngài vừa là ánh sáng vừa là tình yêu thương (IGi1Ga 1:5 4:8) - không phải tình thương không có sự công chính và thuần khiết, cũng không phải sự chánh trực không có lòng nhơn từ
thương xót, nhưng là tình yêu thương thánh khiết và sự thánh khiết đầy yêu thương, mỗi mỹ đức ấy đạt tới cấp bậc cao nhất - mỗi lời phát biểu tóm tắt những gì ông đã học hỏi với Chúa Giê-Xu về Đức Chúa Trời.
BA NGÔI HIỆP MỘT
Thứ ba , Con Đức Chúa Trời dạy các môn đệ Ngài làm phép Báp-tem “nhơn danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh” (Mat Mt 8:19). Cần lưu ý danh số ít chớ không phải số nhiều. Ba Ngôi hiệp một chỉ là một Đức Chúa Trời. Ở đây, chúng ta gặp chân lý khó hiểu trong tất cả các chân lý về Ba Ngôi Đức Chúa Trời, ba phân đoạn của Bài Tín Điều ("Đức Chúa Cha...Con độc sanh của Ngài...Đức Thánh Linh") cũng làm chứng cho.
Chúng ta phải làm gì đối với chân lý ấy? Ngay chính nó, ba-ngôi-hiệp-một đã là một huyền diệu, một sự kiện siêu vượt trí hiểu của chúng ta không thấu đạt nổi (đối với các thực tại khác của Đức Chúa Trời cũng vậy, tính cách vĩnh hằng, vô hạn, vô sở bất tri và quyền năng kiểm soát thần hựu các hành động tự do của chúng ta; tất nhiên, mọi chân lý về Đức Chúa Trời đều vượt khỏi khả năng lãnh hội của chúng ta, hoặc ít hoặc nhiều). Làm thế nào một Đức Chúa Trời đời đời,đổi dời ở số ít và số nhiều; làm thế nào cả Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con lẫn Đức Thánh Linh đều phân biệt nhau về thân vị (personally) nhưng thiết yếu vẫn là một (cho nên phái Tam thần (tritheism) mới tin vào ba vị thần không phải là một, và phái nhất thần (Unitarianism) lại tin vào Đức Chúa Trời duy nhất chớ không phải là ba, đều sai lầm cả), là điều vượt quá điều chúng ta có thể biết, vượt trên mọi nỗ lực nhằm “giải thích” khi người ta muốn bác bỏ một huyền diệu bằng cách lý luận thay vì chấp nhận nó căn cứ theo
Kinh Thánh, nhất định người ta sẽ ngụy tạo, biến nó thành tà giáo. Ở đây cũng như ở bất kỳ chỗ nào khác, Đức Chúa Trời của chúng ta quá vĩ đại đối với tâm trí nhỏ bé, hẹp hòi của các tạo vật của Ngài.
Nhưng các sử kiện làm nền tảng cho đức tin Cơ Đốc giáo - một người là Đức Chúa Con cầu nguyện với Cha mình và hứa rằng mình với Cha mình sẽ phái một “Đấng Yên ủi khác” đến để tiếp tục thiên chức của mình - và những sự kiện phổ quát về từng trải tận hiến của các Cơ Đốc nhân là thờ phượng một Đức Chúa Cha phía trên mình, nhận biết sự thông công với Con Đức Chúa Trời bên cạnh mình, cả hai việc đều do sự thúc giục của Đức Thánh Linh cũng là Đức Chúa Trời bên trong mình - tất cả đều chỉ ra, không tránh né vào đâu được, tính cách thiết yếu của Ba Ngôi Đức Chúa Trời Hiệp Một. Đó là công tác hoạt động của Ba Ngôi Đức Chúa Trời để cứu chuộc chúng ta: Đức Chúa Cha thiết kế, Đức Chúa Con cung cấp, và Đức Thánh Linh ứng dụng sự cứu chuộc. Nhiều đoạn Kinh Thánh đã làm chứng cho việc này, chẳng hạn hãy đọc RoRm 8:1-17 IICo 2Cr 13:14 Eph Ep 1:3-14 IITe 2Tx 2:13 và tt; IPhi 1Pr 1:2. Khi chúng ta phân tích phúc âm của Chúa Cứu thế , chân lý của Đức Chúa Trời Ba Ngôi được chứng minh là nền tảng và là phần nòng
cốt của phúc âm.
Chỉ do công lao của ân điển tập trung vào sự nhập thể mới khiến Đức Chúa Trời duy nhất được nhìn thấy là nhiều người. Cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên nếu những người không tin vào công lao của ân điển cũng nghi ngờ chân lý về Ba Ngôi Đức Chúa Trời nữa.
Nhưng đó chính là Đức Chúa Trời của Bài Tín Điều. Vậy phải chăng đó chính là Đức Chúa Trời chúng ta đang thờ phượng? Hay cả chúng ta nữa, cũng trở thành các nạn nhân của việc thờ lạy thần tượng?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức Chúa Trời tự bày tỏ mình (mặc khải): GiGa 1:1-18.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tác giả ngụ ý gì khi nói: “Nhưng trong Kinh Thánh, điểm phân biệt rõ ràng nhất vẫn là giữa những người tin Đức Chúa Trời của Cơ Đốc giáo, với những kẻ phục vụ các thần tượng” Bạn đồng ý hay không đồng ý? Tại sao?
2. Ý nghĩa căn bản tên Đức Giêhôva của Đức Chúa Trời là gì? Tên ấy nói gì với chúng ta về Ngài?
3. Tại sao Chúa Cứu thế lại dạy các môn đệ Ngài “nhơn danh (số ít) Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh” mà làm phép Báp-tem?

CHA TOÀN NĂNG
Người tín đồ Anh quốc giáo thờ phượng Chúa thường cầu nguyện vế đầu tiên của bài Tín Điều trước khi xưng nhận điều đó, vì “Toàn Năng và thường phải là Cha nhơn từ” là câu nói đầu tiên của hội chúng khi đọc Bài Cầu Nguyện buổi sáng và Bài Cầu Nguyện buổi chiều. Trong bất luận buổi nhóm nào của một giáo phái có sử dụng Bài Tín Điều, dường như Đức Chúa Trời là Cha vẫn được tôn vinh bằng thánh ca trước khi đọc Bài Tín Điều, vì đây là một chủ đề mà bản năng của các tác giả viết thánh ca luôn luôn đề cao. Nhưng chúng ta phải hiểu việc đó như thế nào?
CÔNG CUỘC SÁNG TẠO
Rõ ràng khi Bài Tín Điều đề cập “Đức Chúa Trời là Cha Toàn Năng (theo bản Anh văn), Đấng dựng nên trời đất”, bài tín điều nhìn ngay vào sự kiện chúng ta và muôn loài vạn vật đều trông cậy vào Đức Chúa Trời với tư cách Đấng Tạo Hóa để tồn tại, từng phút từng giây. Vậy gọi công lao sáng tạo là tình phụ tử không hề sai Kinh Thánh: nó được vang lên trong Cựu Ước, sách MaMl 2:10: “Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một Cha sao? Chẳng phải chỉ có một Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta sao?” và trong Tân Ước, sách Cong Cv 17:28, khi Phaolô truyền giảng tại A-thên đã trích dẫn lời một thi sĩ Hy lạp mà ông đồng ý: “Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài”. Nhưng cả hai lần trích dẫn đều từ những khúc sách đề cập lời đe dọa đoán phạt của Đức Chúa Trời, và bài truyền giảng Phúc âm của Phaolô tại A-thên vạch ra rất rõ ràng tuy mối liên hệ về dòng dõi hàm ý bó buộc phải tìm cầu, thờ phượng và vâng lời Đức Chúa Trời, để con người phải trả lời cho Ngài vào ngày tận thế, không hề ngụ ý sẽ ban ơn hay vui nhận khi con người không ăn năn tội lỗi của quá khứ về đức tin vào Chúa Cứu thế (xin đọc các bài giảng các câu 17:22-31)
Có một số người nhấn mạnh đến mối liên hệ Cha Con phổ quát của Đức Chúa Trời với loài người, thường xem việc ấy như ngụ ý tất cả mọi người đang và sẽ luôn luôn ở trong tình trạng được cứu rỗi, nhưng đó không phải là quan điểm của Kinh Thánh. Phaolô bảo rằng những kẻ cho rằng “lời giảng về thập tự là điên dại” là “những người hư mất” (ICo1Cr 1:18), và cảnh cáo những kẻ “không ăn năn” là “tự chấp chứa cho mình sự giận về ngày thạnh nộ” (RoRm 2:25), cho dù họ là dòng dõi của Đức Chúa Trời tới đâu đi chăng nữa.
Bài
CHA VÀ CON
Thật vậy, khi Tân Ước đề cập Đức Chúa Trời là Cha, không hề ám chỉ việc sáng tạo, mà đề cập hai mối liên hệ thiết thân hơn. Thứ nhất là đời sống bên trong của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Bên trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đời đời có mối liên hệ giữa Cha và Con. Trên đất này, Đức Chúa Con gọi Đấng mà mình phục vụ là “Cha tôi” và gọi Ngài là A-ba - từ ngữ A-ram tương đồng với Cha đáng kính - khi cầu nguyện.
Chính Chúa Giê-Xu từng tuyên bố mối liên hệ đó có nghĩa gì. Một mặt, Đức Chúa Con yêu thương Đức Chúa Cha (GiGa 14:21), bao giờ cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha (8:29). Ngài không hề đi trước, mà luôn luôn lệ thuộc sự hướng dẫn của Đức Chúa Cha từng phút từng giây (5:19, 30), nhưng sự kiên trì vâng theo ý chỉ của Đức Chúa Cha là do chính Ngài. “Lạy Cha...song không theo ý muốn Con mà theo ý muốn Cha...xin ý Ngài được nên” (Mat Mt 26:39,42). “Ta há chẳng uống chén mà Cha đã ban cho ta uống sao?” (GiGa 18:11).
Mặt khác Đức Chúa Cha yêu thương Đức Chúa Con (GiGa 3:35 5:20), đề cao Ngài bằng cách ban sự vinh hiển và cho Ngài làm nhiều việc vĩ đại (5:20-30 10:17 17:3-26). Ban sự sống và thi hành sự phán xét là hai nhiệm vụ song sinh đã được phó thác cho Ngài, “đặng ai nấy đều tôn kính Con” (5:23).
Tình phụ tử của Đức Chúa Cha đối với Con đời đời của Ngài vừa là nguyên mẫu của mối liên hệ ân điển giữa Ngài với dân Ngài vừa là khuôn mẫu do đó mà có tình phụ tử Đức Chúa Trời đã tạo ra trong các gia đình loài người. Phaolô đề cập “Đức Chúa Trời là Cha Chúa Cứu thế Giê-Xu chúng ta” là “Cha mà cả nhà trên trời và dưới đất đều đặt tên” (Eph Ep 1:3 3:14 và tt). Bằng chính quy chế nội bộ gia đình của loài người phản ảnh mối liên hệ giữa Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con phải bộc lộ một tình yêu thương tương ứng với tình yêu thương nhau giữa Cha và Con trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
CON THỪA NHẬN
Mối liên hệ thứ hai Tân Ước đề cập Đức Chúa Trời là Cha, liên việc với việc người tín hữu là tội nhân tin Chúa được thừa nhận vào sinh hoạt với gia đình Đức Chúa Trời. Đây là một ân điển siêu nhiên, kết hợp với việc xưng công bình và sự tái sanh, được Đức Chúa Trời ban cho vô điều kiện (không phải trả giá gì cả_ và được tiếp nhận bằng việc lấy đức tin, hạ mình xuống, tin nhận Chúa Cứu thế Giê-Xu làm Cứu Chúa và là Chúa, là Chủ “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài (tin nhận Ngài), thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời...là những kẻ sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Gia Gc 1:12 và tt). Bức thông điệp Chúa Giê-Xu gởi cho các môn đệ Ngài lúc từ kẻ chết sống lại là : “Ta lên cùng Cha ta và Đức Chúa Trời các ngươi” (GiGa 20:17). Là môn đệ Ngài, họ thuộc về gia đình; lẽ dĩ nhiên, theo chính câu nói đó Chúa Giê-Xu đã gọi họ là anh em ta. Tất cả những ai đã được Ngài cứu, đều là anh em Ngài.
Khi Cơ Đốc nhân đọc vế đầu tiên của Bài tín Điều, người ấy xưng nhận Đấng Tạo Hóa mình cả bằng Cha mình lẫn là chính Cha mình qua Chúa Cứu thế Giê-Xu - một người Cha hiện yêu thương mình chẳng kém gì Ngài yêu thương chính con độc sanh của Ngài. Đây quả thật là một lời xưng nhận kỳ diệu mà chúng ta có thể nói lên.
TOÀN NĂNG
Đức Chúa Trời là Cha “toàn năng” - nghĩa là Ngài có thể làm được tất cả những gì Ngài muốn. Ngài muốn gì cho các con Ngài? Đáp: muốn họ được chung hưởng mọi sự với Ngài. Các tín hữu chính là “kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Chúa Cứu thế , miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài” (RoRm 8:17). Chúng ta sẽ phải chịu đau đớn, nhưng chúng ta sẽ không mất phần vinh hiển: Cha toàn năng sẽ lo việc đó. Đáng chúc tụng danh Ngài.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Chúng ta được thừa nhận trong Chúa Cứu thế : Eph Ep 1:3-14 GaGl 4:1-7.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN.
1. Câu “chúng ta cũng là dòng dõi Ngài” nói gì về tình phụ tử của Đức Chúa Trời? câu ấy loại ra những gì?
2. Đức Chúa Trời là Cha được nhìn thấy như thế nào trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời?
3. Tại sao Chúa Giê-Xu gọi các Cơ Đốc nhân là “anh em” Ngài?

TOÀN NĂNG
Bài Tín Điều công bố đức tin vào Đức Chúa Trời là Cha toàn năng. Hình dung từ này có quan trọng không? Có, rất quan trọng. Nó cho thấy sự kiện căn bản trong Kinh Thánh, ấy là Đức Chúa Trời là Chúa, là Vua, là Đấng vô sở bất năng đang trị vì thế giới của Ngài. Hãy chú ý niềm vui lớn về sự cầm quyền tể trị của Đức Chúa Trời đã được các Thi thiên (chẳng hạn như) Thi Tv 93:1-5, 96:1-13, 97:1-12, 99:1-5 và 103:1-22 công bố và ca tụng. Người ta đem việc cầm quyền tể trị của Đức Chúa Trời làm một chủ đề tranh luận, phản bác; nhưng trong Kinh Thánh, đó là vấn đề quan trọng để mọi người phải thờ phượng Ngài.
Bạn cần biết rằng sẽ không thể nào hiểu đúng được về bất kỳ một điểm nào các đường lối của Đức Chúa Trời trước khi bạn nhìn nó dưới ánh sáng của quyền tể trị của Ngài. Chắc cũng vì thế Bài Tín Điều đã dùng ngay cơ hội đầu tiên để công bố điều đó, qua đó hâm nóng tấm lòng tin tưởng, đây không phải là một chân lý để tâm trí chúng ta lãnh hội cách dễ dàng, và có một số vấn đề đã nảy sinh.
ĐIỀU ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG LÀM ĐƯỢC
Thứ nhất, phải chăng vô sở bất năng có nghĩa là Đức Chúa Trời có thể làm được bất kỳ việc gì không? Không, ý nghĩa của nó không phải như vậy. Có rất nhiều điều Đức Chúa Trời không thể làm được. Ngài không thể làm những điều tự-mâu-thuẫn-với-chính-mình hay vô nghĩa, như biến hình tròn thành hình vuông. Ngài cũng không thể (và đây là điều tối quan trọng) hành động trái với đặc tính của Ngài. Đặc tính đạo đức trọn vẹn của Ngài không thể tự phủ nhận mình. Ngài không thể hành động bất thường, thiếu tình thương, tùy tiện, bất công, hay tiền hậu bất nhất. Cũng như Ngài không thể tha tội mà không đòi hỏi giá chuộc, vì làm như vậy không phải, không đúng, không công chính, Ngài cũng không thể không “thành tín và công bình” để tha tội cho những ai lấy đức tin xưng chúng ra, và không thể không giữ đúng tất cả các lời hứa của mình, vì nếu không làm như vậy ở đây, Ngài cũng không phải , không đúng, không công chính nữa. Không ổn định, chao đảo không quyết liệt và không đáng tin cậy về phương diện luân lý đạo đức là những dấu hiệu của sự yếu đuối chớ không phải là của sức mạnh; nhưng Đức Chúa Trời vô sở bất năng là sức mạnh tối cao, khiến Ngài không thể lao mình vào những bất toàn vừa kể.
Ở phương diện tích cực, tuy có nhiều việc Đức Chúa Trời thánh khiết, khôn ngoan không thể muốn làm, nhưng tất cả những gì Ngài đã muốn, đã định làm, Ngài đều thực hiện cả. “Điều nào đẹp ý Đức Giêhôva làm, Ngài bèn làm điều ấy” (Thi Tv 135:6). Như khi định tạo dựng thế gian này , “Ngài phán thì việc liền có” (Thi Tv 33:9 xem SaSt 1:1-31), đối với việc khác mà Ngài muốn cũng vậy. Với loài người từ nói đến làm là cả một trời một vực, nhưng với Ngài không phải như vậy.
Ý CHÍ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI.
Thứ hai, phải chăng quyền năng thực hiện các chủ đích của Đức Chúa Trời hạn chế ý chí tự do của loài người? Không. Khả năng chọn lựa tự phát và có trách nhiệm của con người là việc do Đức Chúa Trời tạo ra, một phương diện huyền nhiệm của bản tính con người thọ tạo, và quyền năng của Đức Chúa Trời để hoàn thành các chủ đích của Ngài không hề bị bất cứ việc gì do Ngài tạo ra hạn chế cả. Như Ngài đã thực hiện ý chỉ Ngài qua việc vận dụng điều hành vật lý làm sao, cũng vậy, Ngài cũng vận dụng cơ cấu tâm lý của chúng ta để thực hiện ý chỉ Ngài. Không có trường hợp nào tính trung thực của vật thọ tạo bị cưỡng chế và người ta luôn luôn có thể “giải thích” được mọi việc xảy ra (ngoại trừ một số phép lạ) không cần phải viện dẫn quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Nhưng trong tất cả các trường hợp, Đức Chúa Trời chỉ cần truyền lịnh, mọi việc đều xảy ra.
Cho nên Đức Chúa Trời không cần phải xâm phạm bản tính của các thực tại thọ tạo hay thu hẹp hoạt động của con người cho ngay hàng với cấp bậc người máy, Ngài vẫn “làm mọi sự hiệp với ý quyết đoán (Ngài)” (Eph Ep 1:11)
Nhưng chắc chắn trong trường hợp đó, phải chăng chúng ta nghĩ rằng ý chí tự do của mình sẽ chỉ là ảo tưởng, không có thật? Điều đó tùy thuộc điều bạn muốn nói. Nếu chúng ta nghĩ ý chí chúng ta được tự do nếu hành động ngoài Đức Chúa Trời, chắc chắn điều đó chỉ là ảo tưởng. Nhưng ý chí tự do theo nghĩa “kẻ thừa hành tự do” như các thần học gia đã định nghĩa - nghĩa là phần năng lực tự phát, tự quyết để chọn lựa như đã được đề cập ở phần trên - có thật. Nó có thật như một sự kiện sáng tạo, một góc cạnh của nhân tính chúng ta y như mọi vật thọ tạo có trong Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nâng đỡ và cầm quyền tể trị trên mọi vật như thế nào để khỏi cưỡng chế tất cả, đó là bí quyết của Ngài; nhưng Ngài đã làm như vậy là điều chắc chắn, căn cứ cả vào chính kinh nghiệm chúng ta ý thức trong việc quyết định và hành động “hoàn toàn theo ý chí tự do của mình”, lẫn căn cứ vào điều nhấn mạnh trang trọng của Kinh Thánh, rằng chúng ta phải trả lời trước mặt Đức Chúa Trời về các
hành động của mình, chính vì theo ý nghĩa luân lý đạo đức, chúng quả thật là của riêng chúng ta.
ĐIỀU ÁC BỊ CHẾ PHỤC
Thứ ba, phải chăng sự hiện hữu của điều ác - những xấu xa đạo đức, sự đau khổ vô ích, và điều tốt điều thiện bị phung phí gợi ý rằng Đức Chúa Trời không phải là Cha toàn năng? - vì chắc chắn Ngài phải cắt hết mọi điều đó đi, nếu Ngài có thể làm được? Vâng, Ngài sẽ làm, và Ngài đang làm việc ấy! Qua Chúa Cứu thế, những con người xấu xa như bạn với tôi đã được khiến nên tốt lành; những thân thể mới mẻ hoàn toàn được giải phóng khỏi đau khổ bệnh tật đang được hình thành, đồng thời, có cả việc tái tạo cả vũ trụ nữa; và Phaolô bảo đảm rằng: “Những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh được với sự vinh hiển hầu đến sẽ được bày tỏ ra trong chúng ta” (RoRm 8:18 đối chiếu 19:23). Nếu Đức Chúa Trời có vận hành chậm hơn điều chúng ta muốn trong việc quét sạch điều ác khỏi thế gian này để đưa vào một trật tự mới, chúng ta hãy tin quyết rằng vì Ngài muốn mở rộng chủ đích đầy ân điển Ngài để đưa thêm vào đó càng nhiều nạn nhân của thế gian xấu xa gian ác này hơn nữa, bằng không Ngài đã
làm xong xuôi tất cả mọi việc rồi! (Hãy nghiên cứu IIPhi 2Pr 3:3-10, nhất là mấy câu 8 và tt).
TIN LÀNH
Chân lý về Đức Chúa Trời toàn năng trong công cuộc sáng tạo trời đất muôn vật, trong quyền năng thần hựu và trong ân điển, là nền tảng cho tất cả lòng tin cậy, sự bình an, sự vui mừng của chúng ta trong Đức Chúa Trời, và là sự bảo đảm cho mọi hy vọng cho chúng ta về những lời cầu nguyện của mình sẽ được nhậm, được bảo vệ trong hiện tại, và được sự cứu rỗi cuối cùng. Điều đó có nghĩa rằng số mạng, các ngôi sao, sự may rủi mù quáng, sự điên dại của loài người, sự quỉ quyệt của Sa tan không hề điều khiển, kiểm soát thế gian này; trái lại, chính Đức Chúa Trời trọn vẹn về phương diện đạo đức đang cai trị nó, và chẳng có gì có thể truất ngôi Ngài, hay lũng đoạn được các chủ đích do tình yêu thương của Ngài: và nếu tôi đã thuộc về Chúa Cứu thế, thì:
Tôi có một Đấng bảo vệ tể trị, Ngài vô hình, nhưng đời đời vẫn ở gần thành tín bất biến để giải cứu, Toàn năng để cai trị và truyền lịnh...Nếu Ngài là Cái Khiên và Mặt Trời của tôi, thì đêm không còn tối tăm cho tôi nữa, và các khoảnh khắc của đời tôi càng qua nhanh, chúng càng đưa tôi đến gần hơn với Ngài. Phải chăng đó là Tin Lành? Vâng, Tin Lành tốt nhất trên đời!
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức Chúa Trời cầm quyền tể trị: SaSt 50:15-26 Thi Tv 93:1-5 Cong Cv 4:23-31.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Toàn năng có nghĩa gì? Tại sao tin rằng Đức Chúa Tròi toàn năng là điều vô cùng quan trọng? nếu có thì theo ý nghĩa nào, quả thật có một số sự việc cả quyền vô sở bất năng cũng không thể làm được?
2. Ý chí tự do của loài người có hạn chế quyền năng của Đức Chúa Trời không? Tại sao có và tại sao không?
ĐẤNG TẠO HÓA TRỜI VÀ ĐẤT
Kinh Thánh được bắt đầu bằng câu: “Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” ("Trời đất” là cách nói của Kinh Thánh để chỉ “mọi vật đang có").
Người ta có thể tranh luận về vấn đề hai chương 1 và 2 của sách Sáng thế ký đã đề cập nhiều (hay ít) phương pháp sáng tạo - thí dụ hai chương ấy có loại bỏ cái ý niệm về các cơ cấu vật chất có tiến hóa qua nhiều giai đoạn tính bằng nhiều ngàn năm hay không: Tuy nhiên, rõ ràng mục đích chính của hai chương sách ấy không nhằm cho chúng ta biết thế gian này đã được tạo dựng như thế nào, nhưng cho chúng ta biết ai đã tạo dựng nó.
GIỚI THIỆU NHÀ NGHỆ SĨ
Có một chương kết thúc một trong những câu chuyện trinh thám của Dorothy Sayers có nhan đề: “Khi bạn biết cách để nhận biết ai”. Tuy nhiên, hai chương 1 và 2 của Sáng thế ký chỉ cho chúng ta biết ai mà không đưa ra những câu trả lời cho cách làm thế nào. Ngày nay, có thể có người cho rằng đó là một khuyết điểm, nhưng trong viễn ảnh lịch sử mối bận tâm có tính cách “khoa học” hiện nay của chúng ta đối với câu hỏi là cách nào, làm thế nào chớ không phải là ai, tự nó có vẻ đã rất cổ lỗ lắm rồi. Thay vì chê trách các chương sách ấy chẳng có gì để bồi bổ cho mối bận tâm rất thế gian của mình, đáng lẽ chúng ta phải thấy ở đó lời trách cứ cần thiết đối với sự đam mê lệch lạc của chúng ta là chỉ muốn biết về cõi thiên nhiên chẳng cần xét xem điều quan trọng nhất, tức là tìm biết Đấng Tạo Hóa cõi thiên nhiên.
Bức thông điệp hai chương sách ấy rao truyền cho chúng ta là: “Bạn đã thấy biển, thấy trời, thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao? Bạn đã nhìn những con chim, con cá? Bạn đã quan sát phong cảnh, thảm thực vật, các loài thú, côn trùng, mọi sự từ lớn tới nhỏ? Bạn đã ngạc nhiên về tính cách phức tạp kỳ diệu của con người; với tất cả năng lực; tài ba, các tình cảm sâu xa có tính cách lôi cuốn, hấp dẫn, tình cảm giữa người nam và người nữ với nhau? Thật là kỳ lạ, phải không thưa bạn? Vậy, bây giờ, bạn hãy chuẩn bị gặp Đấng đang ẩn đàng sau tất cả điều đó!”. Cũng như có người bảo với bạn rằng: Bây giờ, sau khi bạn đã được thưởng thức các công trình nghệ thuật đó, bạn phải bắt tay nhà nghệ sĩ; bạn đã xúc động sâu xa vì bản nhạc, chúng tôi xin giới thiệu nhạc sĩ đã soạn bản nhạc ấy. Chính vì muốn chúng ta thấy Đấng Tạo Hóa chớ không phải công trình sáng tạo trời đất muôn vật, dạy cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời chớ không dạy khoa học vật lý, nên Sáng thế ký chương 1 và 2,
cùng với những bài ca tụng công cuộc sáng tạo, như Thi thiên 104 và Gióp 38-41 đã được viết.
Trong việc sáng tạo, Đức Chúa Trời là thợ thủ công lành nghề, và còn hơn thế nữa. Người thợ thủ công tác tạo từ vật liệu có sẵn, và bị nó hạn chế mình, nhưng trước khi Đức Chúa Trời phán: “Phải có...” thì chưa có vật liệu nào tồn tại cả. Để nói về điều này, các thần học gia gọi đây là “sự sáng tạo từ hư vô”, không có nghĩa rằng hư vô cũng là một cái gì có(!), nhưng hàm ý khi sáng tạo Đức Chúa Trời hoàn toàn tự do và không hề bị hạn chế, và chẳng có gì quyết định hay phác họa, hình dung trước điều Ngài sắp cho ra đời, trừ ra chính điều mà Ngài nghĩ nó phải như thế nào.
ĐẤNG TẠO HÓA VÀ LOÀI THỌ TẠO
Sự phân biệt giữa Đấng Tạo Hóa với loài thọ tạo là nền tảng của quan điểm về quyền làm và chưa làm chủ của Đức Chúa Trời trong sự sắp xếp thần hựu và ban ân điển, và lẽ tất nhiên cũng là tất cả mọi tư tưởng về Đức Chúa Trời và loài người. Chính vì thế nó được ghi trong Bài Tín Điều. Tầm quan trọng của nó ít nhất cũng gồm ba phương diện:
Thứ nhất , nó ngăn chặn sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta theo hình tượng Ngài nhưng chúng ta lại có khuynh hướng muốn nghĩ về Ngài theo như hình tượng của chúng ta! ("Con người tạo ra Thượng đế theo hình tượng của chính nó” là một câu nói đùa của Voltaire, chớ không phải là một câu nói đúng). Nhưng sự phân biệt giữa Đấng Tạo Hóa với loài thọ tạo nhắc nhở chúng ta Đức Chúa Trời không hề lệ thuộc chúng ta như chúng ta bị lệ thuộc vào Ngài; cũng không hề hiện hữu do ý muốn của chúng ta thích như thế, chúng ta cũng không thể nghĩ về sự sống cá nhân của Ngài cũng giống như đời sống chúng ta. Là loài thọ tạo, chúng ta bị hạn chế; chúng ta không thể biết được mọi sự; chúng ta không thể hiện diện khắp nơi, cũng không thể làm được mọi sự hoặc tồn tại bất biến qua năm tháng. Nhưng Đấng tạo Hóa không hề bị hạn chế trong các phương diện ấy. Do đó chúng ta nhận thấy mình không thể nào hiểu nổi Ngài - nói như vậy, tôi không hề ngụ ý bảo rằng Ngài là vô nghĩa lý,
nhưng là Ngài vượt quá khả năng lãnh hội của chúng ta. Chúng ta không thể đo lường được Ngài, chẳng khác gì con chó con mèo của chúng ta không thể đo lường được chúng ta vậy. Khi Luther bảo với Erasmus rằng các tư tưởng của ông về Đức Chúa Trời quá có tính cách con người vì ông đã nhổ bật mọi gốc rễ của tất cả các nguyên tắc của tôn giáo duy lý từng gây ô nhiễm cho Hội Thánh - quả đúng như vậy? Khi suy nghĩ về Đức Chúa Trời, chúng ta phải học hỏi để biết tự phê bình.
Thứ hai , sự phân biệt đó ngăn chận sự hiểu lầm về thế giới này. Thế giới này sở dĩ hiện hữu trong tình trạng ổn định hiện có, là nhờ ý chỉ và quyền năng của Đấng Tạo Hóa. Vì đây là thế giới của Ngài, cho nên chúng ta không phải là các chủ nhân ông, được tự do muốn làm gì thì làm tùy thích, nhưng chỉ là những người quản lý, phải trả lời, phải chịu trách nhiệm với Ngài về cách thức chúng ta sử dụng các nguồn tài nguyên của nó. Và vì đây là thế giới của Ngài, chúng ta không thể chê bai nó. Phần lớn các tôn giáo được xây dựng trên ý niệm trật tự vật chất - thực tại như thân xác ta kinh nghiệm cùng với thân xác ta kinh nghiệm được nó - là xấu, do đó, cần phải bị khước từ chẳng đếm xỉa gì đến trong phạm vi của nó. Quan điểm phi nhân hóa những kẻ tôn sùng nó đó, nhiều khi cũng tự xưng là theo Cơ Đốc giáo, nhưng sự thật là nó vốn phi-Cơ Đốc giáo. Vì vật chất vốn do chính Đức Chúa Trời tạo ra, là tốt lành dưới mắt Ngài (SaSt 1:31) cho nên dưới con mắt chúng ta sự việc cũng phải như
vậy ((ITi1Tm 4:4). Chúng ta phục vụ Đức Chúa trời bằng cách sử dụng và hưởng thụ những vật tạm thời đó với tấm lòng biết ơn, với ý thức về giá trị của nó đối với Ngài là Đấng Tạo Hóa chúng, và đối với tấm lòng hào hiệp mà Ngài đã ban cho chúng ta. Tìm cách phục vụ Đấng Tạo Hóa lại chê bai bất cứ một thành phần trong công trình Đấng Tạo Hóa của Ngài, thì kẻ ấy tất nhiên “thiêng liêng quá mấu” và phi nhân.
Thứ ba , sự phân biệt đó ngăn chận sự hiểu lầm về chính mình. Vì con người không phải là kẻ tự tạo chính mình, nên không thể tự cho mình là chủ của bản thân “Đức Chúa Trời đã tạo chúng ta cho chính Ngài, để phục vụ Ngài trên đất này”. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta là sự kiện đầu tiên trong đời sống chúng ta phải đương đầu; muốn trực diện với nó, chúng ta cần có một ý thức đúng đắn về tính cách thọ tạo của mình.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa: SaSt 1:1-2:25 EsIs 45:9-25
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Câu “Phải có..."mà Đức Chúa Trời phán có nghĩa gì?
2. “Sự phân biệt giữa Đấng Tạo Hóa với loài thọ tạo” tác giả bàn đến ở đây có liên hệ gì với việc Đức Chúa Trời tạo dựng con người theo hình tượng Ngài?
3. Tại sao chúng ta dám quả quyết trật tự vật chất không phải là xấu?

TÔI TIN CHÚA CỨU THẾ GIÊ-XU
“Tôi tin Đức Chúa Trời là Cha...và tin Đức Chúa Giê-Xu, Con độc sanh của Ngài và Chúa chúng ta”. Bài Tín Điều công bố như vậy. Khi Bài Tín Điều gọi Đức Chúa Trời là “Đấng dựng nên trời đất”, nói chung bài ấy bắt đầu bằng cách kết bạn với Ấn giáo và các tôn giáo Đông phương. Giờ đây, khi bảo rằng Chúa Cứu thế Giê-Xu là Con một của Đức Chúa Trời, Bài Tín Điều đã chia tay với Do thái giáo và Hồi giáo để đứng riêng một mình. Lời công bố đó về Chúa Giê-Xu là tảng đá làm nền móng cho Cơ Đốc giáo và là chất liệu để khiến Cơ Đốc giáo trở thành độc nhất vô nhị. Vì cả Tân Ước được viết nhằm biện minh cho lời công bố đó, chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy Bài Tín Điều nhấn mạnh điều đó với đầy đủ chi tiết hơn khi nhấn mạnh bất kỳ một điểm nào khác.
CHÚA CỨU THẾ TẠI TÂM ĐIỂM
Lời công bố này là tâm điểm của phần trình bày Bài Tín Điều, vì đoạn rất dài đề cập Chúa Cứu thế Giê-Xu nằm giữa hai đoạn yếu hơn đề cập Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh. Nó cũng là ý chính, là tâm điểm của đức tin của Bài Tín Điều, vì chúng ta sẽ không thể hiểu được Ba Ngôi Đức Chúa Trời, sự cứu rỗi, sự sống lại và sự sống đời đời ngoài Chúa Cứu thế Giê-Xu. Chính Chúa Cứu thế Giê-Xu, bằng việc cứu chuộc toàn thể dân sự Đức Chúa trời, là Đấng đã mặc khải tất cả các chân lý kia.
Hãy xem Bài Tín Điều trình bày Ngài như thế nào.
Giê-Xu (từ ngữ Hi văn dành cho Giô-suê có nghĩa là “Đức Chúa Trời là Cứu Tinh") là tên riêng của Ngài. Nói lên rằng Ngài là một nhân vật lịch sử, con trai của Bà Mari, người Naxarét xứ Galilê, một người Do thái, nguyên làm thợ mộc, từng hoạt động ba năm với tư cách là một rabi ở thôn quê, rồi bị nhà cầm quyền La mã xử tử vào khoảng năm 30 SC. Bốn sách Tin Lành mô tả khá chi tiết về chức vụ của Ngài.
Cứu thế (Christ, nghĩa đen: người được xức dầu) không phải là biệt danh, ngoại trừ theo cách gọi thời xưa, chỉ nghề nghiệp của một người. “Christ” có thể người Hội trưởng lão gọi là một “chức sắc”, Chúa Giê-Xu là Đấng được Đức Chúa Trời lập làm nhà-vua-cứu-tinh mà dân Do thái trông đợi từ lâu. Vì mọi người đều mong đợi Chúa Cứu thế sẽ thiết lập quyền cai trị của Đức Chúa Trời và được chào đón như Chúa tể cả thế gian, gọi Chúa Cứu thế Giê-Xu có nghĩa là tôn xưng Ngài vào địa vị quyết định trong lịch sử mà mọi người ở khắp nơi đều phải nhìn nhận. Các Cơ Đốc nhân đầu tiên ý thức rõ ràng điều đó khi gọi Ngài như vậy. Người ta có thể thấy họ có ý đó trong những bài thuyết giảng đã được ghi lại trong Công vụ (xem Cong Cv 2:22-36 3:12-36 5:29-32 10:34-43 13:26-41 v.v...) “Chúa Cứu thế đã chết và sống lại, ấy là để làm Chúa kẻ chết và kẻ sống” (RoRm 14:9). “Hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-Xu, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất thảy đều quì xuống” (Phi Pl 2:10).
Danh hiệu Christ còn nói lên việc Chúa Giê-Xu chu toàn cả ba chức vụ mà người ta được xức dầu trong thời Cựu Ước để làm nhà tiên tri (sứ giả từ Đức Chúa Trời đến), thầy tế lễ (người nhờ của lễ trở thành trung gian giữa Đức Chúa Trời với chúng ta), cũng như để làm vua.
Vinh quang của việc kết hợp các vai trò ấy lại chỉ được thấy rõ khi chúng ta nối liền chúng với các nhu cầu thật sự của mình. Chúng ta là tội nhân, cần gì để phục hồi nối liên hệ phải lẽ và tốt đẹp với Đức Chúa Trời? Trước hết, chúng ta dốt nát về Ngàinên cần được dạy bảo - vì ta không thể nào liên hệ tiếp xúc thỏa đáng với một người mà mình chỉ biết rất ít hay chẳng quen biết gì cả. Thứ hai, chúng ta đã làm mặt lạ với Ngài, cho nên bây giờ cần được làm hòa trở lại - nếu không, kết cuộc chúng ta sẽ chỉ là những kẻ xa lạ, không được tiếp nhận, không được tha tội, không được ban phước đối với Đức Chúa Trời là Đấng vẫn yêu thương chúng ta, chúng ta sẽ chỉ là những kẻ bị lưu đày không được thừa kế phần sản nghiệp đã tích lũy cho người được làm con cái Đức Chúa Trời. Thứ ba, chúng ta chỉ là những kẻ yếu đuối, mù quáng và điên dại khi muốn sống cho Đức Chúa Trời, cho nên chúng ta cần có người hướng dẫn, bảo vệ và tăng cường sức lực - đó là vai trò của nhà vua trong dân Ysơraên vào
thời Cựu Ước. Giờ đây, nơi con người và chức vụ con người Chúa Cứu thế Giê-Xu, nhu cầu theo cả ba phương diện đó đều được đáp ứng hoàn toàn! Ha-lê-lu-gia!
Nhà Đại Tiên Tri của Đức Chúa Trời tôi!
Lưỡi tôi sẽ ca tụng danh Ngài;
Nhờ Ngài mà Tin Lành về sự cứu rỗi cho chúng tôi đã đến;
Tin mừng về tội lỗi chúng ta được tha,
Hỏa ngục bị chế phục, và được phục hòa với thiên đàng.
Chúa Giê-Xu, Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm lớn của tôi,
Hiến dâng huyết Ngài và chịu chết;
Lương tâm tôi lời của tôi không tìm cầu của lễ nào khác;
Huyết đầy quyền năng của Ngài thực hiện sự cứu chuộc chỉ một lần,
Và bây giờ, thì biện hộ trước ngôi.
Lạy Chúa Toàn Năng yêu dấu
Nhà chinh phục và là Vua tôi,
Tôi ca ngợi cây Vương trượng và thanh gươm Ngài,
Và sự cai trị đầy ân điển Ngài
Quyền phép thuộc về Ngài; hãy nhìn xem,
Tôi ngồi
Tự ý tự nguyện chịu trói buộc dưới chân Ngài.
CHÚA LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Đức Chúa Giê-Xu, là Chúa Cứu thế (theo Bài Tín Điều) là Con độc sanh của Đức Chúa Trời. Điều này nhận diện người con trai của Bà Mari là ngôi thứ hai trong ba Ngôi Đức Chúa Trời đời đời, là Ngôi Lời đại diện của Đức Chúa Cha để tạo dựng và nâng đỡ thế gian này được tốt đẹp cho đến nay (GiGa 1:1-14 Cong Cv 1:13-20 HeDt 1:1-3). Đây là điều kinh ngạc quá đỗi? Vâng, chắc chắn như vậy, nhưng việc “kê khai ý lịch” Ngài như vậy, chính là “trái tim” của Cơ Đốc giáo. “Lời của Đức Chúa Trời đã trở thành người và sống giữa chúng ta"(GiGa 1:14, bản dịch Phillips).
Tiếp ngay sau đó, là “Chúa chúng ta”. nếu Chúa Giê-Xu là Con Đức Chúa Trời, Đấng Đồng Tạo Hóa chúng ta, cũng chính là Chúa Cứu thế, là nhà vua được xức dầu, hiện đã từ kẻ chết và đang trị vì (như Bài Tín Điều nói là “ngồi bên hữu Đức Chúa Trời Toàn năng là Cha” là địa vị có uy quyền và đầy quyền năng), Ngài có quyền để cai trị chúng ta, chúng ta chẳng có quyền gì để chống lại sự đòi hỏi đó. Ngài từng xâm chiếm không gian và thời gian tại Palestine gần 2.000 năm trước đây, ngày nay, Ngài cũng xâm nhập không gian của chúng ta như vậy, nhằm cùng một chủ đích do tình yêu thương đến thế gian này lần thứ nhất. Lúc đó, Ngài đã phán: “Hãy đến mà theo ta”, hiện nay cũng vậy.
Vậy Ngài có phải là Chúa chúng ta không? Với tất cả những ai đọc Bài Tín Điều, không thể nào tránh được câu hỏi này, vì làm thế nào bạn nói “Chúa chúng ta” trong nhà thờ trước khi bạn nói “Chúa tôi” trong lòng mình cho được?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Giê-Xu: Đức Chúa Trời vừa là người: HeDt 1:1-3:6
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tên “Giê-Xu” có nghĩa gì trong lịch sử và cho chúng ta ngày nay?
2. Danh hiệu Chúa Cứu thế (Christ) có nghĩa gì đối với dân Do thái đang trông chờ? Nó có nghĩa gì cho chúng ta?
3. Tại sao Chúa Giê-Xu được quyền đòi hỏi để cai trị đời sống bạn?
CON ĐỘC SANH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Khi bạn nghe một thanh niên được giới thiệu “đây là con trai một của tôi”, chắc bạn biết ngay anh ta là “con cưng”, là con ngươi của mắt cha anh ta. Từ ngữ này nói lên sự trìu mến, cưng chìu. Khi Bài Tín Điều gọi Chúa Giê-Xu là “Con độc sanh của Đức Chúa Trời” (âm vang của “con một” trong GiGa 1:18 3:16,18) ngụ ý chính Chúa Giê-Xu, với cương vị Con một của Đức Chúa Trời, rất được Cha Ngài yêu mến. Lúc kể lai lịch của Chúa Giê-Xu khi Ngài chịu phép Báp-tem và hóa hình, Đức Chúa Trời đã tự nói với mình khi phán từ trời xuống: “Này là Con yêu dấu của ta...” (Mat Mt 3:17 17:5).
ĐỨC CHÚA TRỜI TRỌN VẸN
Hơn nữa, câu này của Bài Tín Điều là bức chiến lũy chống lại việc hạ thấp và phủ nhận thần tánh của Chúa Giê-Xu, như người ta thấy trong thuyết duy nhất thần và các giáo phái chủ trương thờ phượng (Unitarianism and the cults). Chúa Giê-Xu không phải là một con người thánh thiện được linh cảm của Đức Chúa Trời; Ngài cũng không phải là một siêu thiên sứ đứng đầu và đẹp đẽ nhất trong muôn loài thọ tạo, được gọi xã giao là “thần” vì Ngài vượt trên loài người (đó là cách người Arians hồi thế kỷ thứ tư, và các tín đồ chứng nhân của Đức Giêhôva gọi Ngài hiện nay). Chúa Giê-Xu đã và hiện vẫn còn là Con một của Đức Chúa Trời, vẫn thật sự và trọn vẹn chính là Đức Chúa Trời như Cha Ngài vậy. Chúa Giê-Xu phán ý muốn của Cha ta, ấy là “ai nấy đều tôn kính Con, cũng như tôn kính Cha vậy” (GiGa 5:23), một câu nói đã hạ thuyết duy nhất thần đo ván!
Nhưng phải chăng đề cập mối liên hệ Cha Con trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời chỉ là kể chuyện thần thoại? Không đâu, vì chính Chúa Giê-Xu cũng từng nói như vậy. Ngài gọi Đức Chúa Trời là “Cha ta” và tự xưng “Con”. Ngài đề cập một mối liên hệ Cha Con độc nhất vô nhị và đời đời, mà Ngài đã đến là để đưa nhiều người khác vào đó. “Ngoài Cha không có ai biết Con; ngoài Con và người nào Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không ai biết Cha” (Mat Mt 11:27)
ĐƯỢC SANH RA
Bài Tín Điều Nicea viết: “Được Cha Ngài sanh ra trước mọi thế giới...được sanh ra chớ không phải được dựng nên”. Đây là ngôn ngữ tranh luận hồi thế kỷ thứ tư. Vấn đề ở đây là, tuy Đức Chúa Con đã sống một cuộc đời lệ thuộc vào Đức Chúa Cha, vì đó là bản tính Ngài ("Ta sống bởi Cha” GiGa 6:57), chính Ngài là Đức Chúa Trời đời đời, chớ không phải là một loài thọ tạo. Câu này không hề gợi ý rằng Đức Chúa Con từ Đức Chúa Cha mà ra, hay Ngài thua kém Đức Chúa Cha.
“Được sanh ra” trong hình dung từ “độc sanh” (hay “con ruột") của sách Giăng không thể chỉ có nghĩa là một biến cố xảy ra trong quá khứ của Đức Chúa Trời, chẳng còn liên hệ gì với hiện tại nữa, vì chỉ có chúng ta là những vật thọ tạo mới sống trong thời gian mà các biến cố chỉ tồn tại tạm thời. Thời gian như chúng ta biết, là một thành phần của một công trình sáng tạo, cho nên Đấng Tạo Hóa không hề bị nó hạn chế cũng như Ngài không hề bị cái không gian mà chính Ngài đã tạo nên hạn chế mình. Với chúng ta đời sống là những khoảnh khắc liên tục, các biến cố tương lai và quá khứ (sanh ra và bất kỳ một biến cố nào khác) đều vượt ngoài tầm tay; nhưng với Đức Chúa Trời (ấy là chúng ta giả thiết như thế, tuy chúng ta không thể nào tưởng tượng ra) tất cả mọi biến cố đều luôn luôn là hiện tại trong Hiện tại đời đời.
Cho nên việc Đức Chúa Con “được sanh ra” nói theo cách người đời (phân biệt với việc “được sanh ra” tạm thời và theo nghĩa bóng của nhà vua trong Thi Tv 2:7 được ứng dụng cho Đấng Christ trong Cong Cv 13:33 và HeDt 1:5, 5:5, chỉ có nghĩa đơn giản là nhà vua được tôn lên ngôi) phải được nghỉ đến, không phải như một biến cố tạm thời, bởi đó Đức Chúa Trời trước thuộc số ít, bây giờ lại trở thành số nhiều, nhưng như một mối liên hệ đời đời bởi đó ngôi thứ nhất vẫn luôn luôn là Cha của Đức Chúa Con, còn ngôi thứ hai là Con của Đức Chúa Cha. Hồi thế kỷ thứ ba, Origen đã vui mừng diễn tả tư tưởng đó bằng cách nói về “sự sanh ra đời đời” của Đức Chúa Con. Đây là một phần của sự vinh hiển có một không hai của Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
HUYỀN NHIỆM
Công thức về sự nhập thể - của giáo hội nghị Chalcedon “một con người hai bản tính trọn vẹn là Đức Chúa Trời mà cũng hoàn toàn là con người” hay của Karl Barth “Đức Chúa Trời vì con người và con người vì Đức Chúa Trời” - nghe ra có vẻ đơn giản, nhưng chính sự việc lại rất sâu nhiệm. Đả phá các tà giáo đờixưa cho rằng Đức Chúa Con chỉ mặc lấy thân xác con người nhưng không có tâm hồn của con người, hay như Ngài luôn luôn là hai con người dưới cùng một :lốt” người, cũng như tà giáo hiện đại chủ trương rằng việc “thành nhục thể” của Đức Chúa Con chỉ là một trường hợp ngự trị đặc biệt của Đức Thánh Linh trong lòng mọi người, khiến Chúa Giê-Xu không phải là Đức Chúa Trời, mà chỉ là một-người-được-đổ-đầy-Đức Chúa Trời mà thôi - đả phá các tà giáo như thế rất dễ, nhưng lãnh hội được sự nhập thể là gì với những điều kiện tích cực của nó, quả là vượt hẳn khả năng của chúng ta. Tuy vậy, xin bạn chớ nên lo lắng; bạn không cần phải biết Đức Chúa Trời đã thành người như thế nào rồi mới nhận
biết được Đấng Christ! Cho dù bạn có hiểu hay không, sự kiện vẫn là “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt” (GiGa 1:14); đây là một phép lạ tối thượng, khiến tâm trí của chúng ta phải choáng váng; tình yêu thương là nguyên nhân thúc đẩy việc ấy xảy ra; và phần của chúng ta không phải là suy đoán, lý luận để phân tích, mà chỉ là ngưỡng mộ, tôn thờ, yêu thương và tôn cao “Chúa Cứu thế Giê-Xu...hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời, không hề thay đổi” (HeDt 13:8)
Đáp lại kế hoạch nhơn từ thương xót của Ngài Đức Chúa Trời đã nhập thể vì tôi; Tâm linh tôi biến thành ngôi đền thờ sáng chói của Ngài, Thành ánh sáng và sự cứu rỗi tôi; Và qua các bóng tối sự chết vô danh dẫn tôi đến ngôi ngời chói của Ngài.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Con Đức Chúa Trời nhập thể: CoCl 1:13-23
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SDUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao chỉ gọi Chúa Giê-Xu là người được Đức Chúa Trời linh cảm, là một siêu thiên sứ, hoặc cả là thần nữa, vẫn chưa đủ?
2. Sự kiện Đức Chúa Con không phải là một vật thọ tạo, có nghĩa gì?
3. Tại sao đối diện với Cơ Đốc giáo có phải là trực diện với Chúa Cứu thế Giê-Xu không?
SANH RA BỞI NỮ ĐỒNG TRINH MARI
Kinh Thánh nói rằng Con Đức Chúa Trời đi vào và lìa thế gian này bằng các hành động siêu nhiên do quyền phép. Ngài ra khỏi thế gian bằng sự phục sinh, sự thăng thiên, còn Ngài vào thế gian bằng việc được một trinh nữ sanh ra, cả hai đều ứng nghiệm lời tiên báo trong Cựu Ước (xem EsIs 7:14 về việc được trinh nữ sanh ra, và 53:10-12 về việc phục sinh rồi thăng thiên).
Các phép lạ đưa Ngài vào và ra khỏi thế gian, đều mang đến cùng một bức thông điệp. Thứ nhất, chúng xác nhận rằng Chúa Giê-Xu, chẳng có gì thua kém một người, nhưng hơn hẳn con người. Cuộc đời tại thế của Ngài tuy hoàn toàn là đời sống của một con người, cũng đồng thời là đời sống của chính Đức Chúa Trời. Ngài, Đấng Đồng Tạo Hóa, đã đến thế gian này - thế giới thuộc về Ngài - với tư cách một người khách đến viếng thăm thế gian; Ngài từ Đức Chúa Trời đến, rồi trở về với Đức Chúa Trời.
Các giáo phụ nói đến việc được một trinh nữ sanh ra để làm chứng cứ cho việc không phải Chúa Giê-Xu thật sự là Đức Chúa Trời bởi vì Ngài chỉ là người, nhưng cho việc Ngài quả thật là người, khác hẳn với chủ trương cho rằng Ngài là thần linh hay thiên sứ; rất có thể nhằm làm chứng chống lại Hiện hình thuyết mà việc Ngài được một trinh nữ sanh ra đã được đưa vào trong Bài Tín Điều. Nhưng nó cũng làm chứng cách mạnh mẽ tương tự chống lại thuyết chủ trương rằng Chúa Giê-Xu chỉ là một người tốt (humanitarianism).
Thứ hai, hai phép lạ trên cho thấy Chúa Giê-Xu được tự do đối với tội lỗi. Vì được trinh nữ sanh ra, Ngài không thừa hưởng tình trạng phạm tội rắc rối được gọi là nguyên tội: nhân tính của Ngài không tì vết, kết quả là mọi hành động, thái độ, động cơ thúc đẩy và ước muốn của Ngài đều không tiêm nhiễm tội lỗi. Tân Ước nhấn mạnh sự vô tội của Ngài (xem GiGa 8:29, 46 RoRm 5:18 IICo 2Cr 5:21 HeDt 4:15 7:26 IPhi 1Pr 2:22-24 v.v..). Vì Ngài vốn vô tội, cho nên sự chết không thể cầm giữ được Ngài sau khi Ngài thực hiện xong sinh tế của mình.
HAI CÂU CHUYỆN
Tân Ước đưa ra hai phần ký thuật bổ túc cho nhau về việc Chúa Giê-Xu được một trinh nữ sanh ra - hai câu chuyện rõ ràng độc lập với nhau nhưng lại rất hài hòa: câu chuyện về ông Giô-sép trong Mathiơ chương 1 và câu chuyện về bà Mari trong Luca hai chương 1 và 2. Cả hai đều có đầy đủ các dấu hiệu cho thấy đó là chính sử. Các sử gia ngày xưa tự xem mình vừa là nghệ sĩ vừa là nhà luân lý học, cho nên thường bỏ qua không cần trưng dẫn nguồn gốc các sự kiện, nhưng Luca có nhiều lần nói bóng gió rằng chính ông là người trực tiếp thâu thập tài liệu cho phần ký thuật về Bà Mari (đối chiếu LuLc 2:51 với LuLc 1:1-3).
Luca và Mathiơ đưa ra hai bảng gia phổ của Chúa Giê-Xu (Mat Mt 1:2-17 LuLc 3:23-38) khiến một số người kinh ngạc; nhưng ít ra cũng có hai cách để hòa giải ngay được những điểm dường như không được hài hòa. Hoặc là bảng gia phổ của Luca đưa ra bảng phổ hệ theo dòng dõi bên Bà Mari, nhưng bắt đầu bằng ông Giô-sép là Cha (phần xác, nuôi) của Chúa Giê-Xu (xem câu 23) vì theo tiêu chuẩn thực tế, người ta công bố hậu duệ qua những người đàn ông, hoặc là Luca kể tên Giô-sép là theo phổ hệ sinh học, phân biệt với dòng dõi nối ngôi vua cho Đavít, dường như là phổ hệ mà Mathiơ đã bám sát (xem giáo sư F.F.Bruce “Phổ hệ của Chúa Giê-Xu” trong The New Bible Dictionary để có đầy đủ chi tiết).
HOÀI NGHI CHỦ NGHĨA
Trong một thế kỷ rưỡi hoài nghi chủ nghĩa nói cách mạnh mẽ cả đến việc Chúa Giê-Xu do trinh nữ sanh ra lẫn việc thân xác Ngài đã sống lại là hoàn toàn vô lý. Nó đã được bắt đầu như một phần việc trọng tâm của một số người duy lý trí nhằm chứng minh Cơ Đốc giáo không hề có phép lạ, và tuy đến nay trọng tâm đó đã bị cho là lỗi thời rồi (và đó cũng là việc tốt nữa), hoài nghi chủ nghĩa vẫn còn dai dẳng bám vào tâm trí các Cơ Đốc nhân cũng như mùi thuốc lá vẫn còn dai dẳng lưu lại trong phòng sau khi người ta đã dọn thật sạch những cái gạt tàn thuốc. Chẳng có gì để nghi ngờ người ta có thể (tuy không phải là dễ dàng, cũng không phải là điều tự nhiên) tin vào sự nhập thể của Con đời đời của Đức Chúa Trời đã thực hữu từ trước, lại không tin vào các phép lạ đã đưa Ngài vào (thế gian) rồi lại đem Ngài ra; người ta biết nhiều chuyện tiên hậu bất nhất còn rắc rối hơn thế nữa; nhưng chủ trương vì căn cứ vào nhiều nền tảng Chúa Giê-Xu chính là Ngôi Lời nhập thể, hai phép lạ ấy -
như là yếu tố của một phép lạ còn lớn hơn nữa là đời sống nhập thể của Chúa Giê-Xu - không phải là vấn đề đặc biệt cần đặt ra phải được xem là hữu lý hơn, và dĩ nhiên là sự việc đã xảy ra như thế mới là diễn biến hợp lý duy nhất.
Điều chắc chắn nếu chúng ta phủ nhận việc trinh nữ sanh con vì đó là một phép lạ, thì luận lý học, chúng ta cũng phải phủ nhận luôn việc thân thể của Chúa Giê-Xu đã sống lại nữa. Cả hai phép lạ ấy đều cùng một phía với nhau, thừa nhận phép lạ này nhưng lại phủ nhận phép lạ kia, là vô lý.
Bà Mari vẫn là trinh nữ cho đến sau khi sanh ra Chúa Giê-Xu, nhưng các ý niệm cho rằng sau đó nữa bà vẫn đồng trinh vĩnh viễn, chỉ là óc tưởng tượng. Các sách Phúc âm chứng minh rằng Chúa Giê-Xu còn có nhiều em trai, em gái (Mac Mc 3:31 6:3).
Câu “(Ngài) được đầu thai (thai dựng) bởi Đức Thánh Linh, sanh bởi nữ đồng trinh Mari” trong Bài Tín Điều làm chứng cho thực tại về sự nhập thể, không phải nhằm tôn vinh mẹ (về phần xác) của Chúa Giê-Xu. Nhưng giáo hội Công giáo La mã lại hỗ trợ cho việc khai triển tai hại lý thuyết về Bà Mari giữa vòng các thần học gia và việc thờ lạy hình tượng giữa vòng các tín đồ. Thuyết đề cao Bà Mari, xem Bà có địa vị ngang hàng với Đấng Cứu Chuộc (đồng-cứu-chuộc) được đặt trên nền tảng không có trong Kinh Thánh, dạy rằng Bà Mari, cũng như Chúa Giê-Xu được sanh ra vô tội (thuyết hoài thai vô nhiễm) nên cũng sống lại ngay sau khi chết (Đức Bà thăng thiên).
Nhưng Bà Mari thật, Bà Mari của Kinh Thánh tự thấy mình chỉ là một tội nhân đã được cứu rỗi: “Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi” (LuLc 1:47). Bà đã nêu một tấm gương tuyệt vời cho chúng ta, không phải chỉ là về đặc quyền (và cái giá phải trả!) được cộng tác trong kế hoạch của Đức Chúa Trời để đem phước hạnh đến cho thế gian (xem LuLc 1:38 2:5), mà còn về việc khiêm hạ đáp lại ân điển của Đức Chúa Trời nữa. Bậc làm cha mẹ thường chậm hiểu những điểm liên quan đến con cái mình, và có lần Chúa Giê-Xu đã phải buồn bã nhận xét rằng” Đấng tiên tri chỉ bị trong xứ mình và người nhà mình khinh dể mà thôi” Mat Mt 13:57); nhưng Bà Mari và cả gia đình, sau thời gian không tin ban đầu (đối chiếu Mat Mt 13:57 Mac Mc 3:20,31-35 GiGa 7:3-5), đều sống trong đức tin vào con mình (Cong Cv 1:14). Chúng ta có học được gương của họ không?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Tring nữ sanh ra: Mat Mt 1:1-25 LuLc 1:26-56.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Các phép lạ kết hợp với việc Chúa Cứu thế vào và ra khỏi thế gian này cho chúng ta thấy gì về Ngài?
2. Bạn có đồng ý rằng thái độ của một người đối với việc Chúa Giê-Xu được trinh nữ sanh ra và đối với việc phục sinh của Ngài, chỉ là một mà thôi, hay không?
3. Hình ảnh trong Kinh Thánh về Bà Mari so với hình ảnh trong truyền thuyết về Bà của giáo hội Công giáo La mã, khác nhau như thế nào?
CHỊU THƯƠNG KHÓ DƯỚI TAY BÔN-XƠ PHILÁT
Hãy tưởng tượng các nhà khoa học triết gia, hay các thành viên của một đảng phái chính trị cứ luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng nhà sáng lập trường phái, đảng phái của họ đã bị chính quyền xử tử vì bị kết tội là đe dọa pháp luật và trật tự! Đó chính là trường hợp của Cơ Đốc giáo, và thập tự giá của Chúa Giê-Xu là điểm then chốt của Bài Tín Điều “chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ Philát, bị đóng đinh trên thập tự giá”. Hãy xét câu này theo thứ tự ngược lại.
“Bị đóng đinh trên thập tự giá”. Đây là cách hành quyết tiêu chuẩn của người La mã dành cho các tội phạm. Bảo rằng “Chúa Giê-Xu bị đóng đinh vào thập tự giá” đồng nghĩa với bảo rằng “Ngài bị xử tử, bị xử treo cổ, xử chém, xử bắn, bị đưa lên ghế điện”.
PHILÁT
“Dưới tay Bôn-xơ Philát”. Hitler sẽ được ghi nhớ là kẻ tàn sát dân Do thái, và Philát, một nhân vật chẳng ra gì như vậy, cũng tồn tại trong lịch sử như kẻ đã giết Chúa Giê-Xu: Dưới thời chiếm đóng của người La mã, các nhà cầm quyền Do thái không được hành quyết ai cả, cho nên, khi họ kết án Chúa Giê-Xu vì Ngài tự xưng lai lịch đúng thật của mình là Nhà Vua Cứu thế của Đức Chúa Trời - tức là Chúa Cứu thế - thì họ giải giao Ngài cho quan tổng đốc để bản án ấy được thi hành (họ cho rằng lời xưng nhận của Ngài là lộng ngôn).
Sau khi rửa tay mình - một hành động cho việc tượng trưng cho việc ông ta vô can trong vụ án ấy và có lẽ cũng bằng một điệu bộ lạnh lùng thản nhiên nhất mọi thời đại - Philát đã bật đèn xanh cho một vụ sát nhân bằng một phiên tòa, truyền lịnh rằng tuy Chúa Giê-Xu vô tội, vẫn phải chịu chết như thường để cho thiên hạ được vui lòng. Philát cho rằng cai trị như vậy là sáng suốt; còn bạn có thấy hành động của ông ta cay cú đến mức nào không?
THƯƠNG KHÓ
Từ ngữ “thương khó” chẳng những nói lên ý nghĩa về sự đau khổ thường ngày, mà còn có nghĩa xưa và rộng hơn là đối tượng phải chịu khổ vì hành động của một người khác. Từ ngữ La tinh là passua, do đó mà có danh từ passion. Cả Đức Chúa Trời lẫn loài người đều chủ động trong sự thương khó của Chúa Giê-Xu “Giê-Xu này bị nộp theo ý định trước về sự biết trước của Đức Chúa Trời (còn) các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh người trên thập tự giá” (Cong Cv 2:23, trong bài giảng đầu tiên của Phierơ). Tại thập tự giá, chủ đích của Đức Chúa Trời cũng rõ ràng như tội lỗi của những kẻ đã đóng đinh Chúa Giê-Xu vào đó.
Chủ đích của Đức Chúa Trời là gì? Là đoán phạt tội lỗi để tỏ lòng thương xót đối với tội nhân. Con người sử dụng công lý cách sai lầm đã hoàn thành công lý của Đức Chúa Trời. Trên thập tự giá, Chúa Giê-Xu đã cảm nhận đầy đủ sự đau đớn cả thế xác lẫn tinh thần, loài người có thể đem đến, và cả cơn thạnh nộ về sự từ bỏ của Đức Chúa Trời cũng đem đến điều mà tội lỗi của tôi xứng đáng phải nhận chịu vì Ngài đã nhận lãnh hình phạt ấy thay cho tôi, để chuộc tội cho tôi “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc...Đức Giêhôva đã làm cho hết thảy tội lỗi chúng ta đều chất trên Ngài” (EsIs 53:6)
Vì Cứu Chúa vô tội chịu chết, mà linh hồn tội lỗi của tôi được kể là tự do. Vì Đức Chúa Trời là Đấng Công Bình đã hài lòng nhìn vào Ngài, để tha tội cho tôi.
CỦA LỄ CHUỘC TỘI
Đến đây, chúng ta đạt tới tâm điểm của Cơ Đốc giáo - chúng ta có thể nói là trái tim của chính trái tim Cơ Đốc giáo; vì nếu sự nhập thể là đền thờ, thì sự chuộc tội chắc chắn là nơi chí thánh . Nếu sự nhập thể là phép lạ tối thượng, đó chỉ mới là bước đầu của một loạt những bước đi xuống từ niềm vui vẻ phước hạnh thiên đàng đền tận chỗ thương khó và nhục nhã của đồi Gôgôtha (Phi Pl 2:5-8). Lý do khiến Con Đức Chúa Trời trở thành người, ấy là để đổ huyết mình ra (như lời lẽ trong sách Cầu nguyện) làm “một sinh tế trọn vẹn và đầy đủ để tẩy sạch thỏa đáng tất cả tội lỗi của toàn thế gian “Đức Chúa Trời đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho” (RoRm 8:32). Đó là mức độ của tình yêu thương Ngài (đối chiếu 5:5-8).
Cũng chính bằng các từ ngữ ấy - là những từ ngữ không đề cập sự tốt bụng bỏ qua, nhưng nói về sự ban cho quý báu đặc biệt - Giăng đã giải thích đều ông đã tự ý muốn nói trong mấy chữ “Đức Chúa Trời là sự yêu thương” vĩ đại và quang vinh, nhưng bị hiểu lầm rất nhiều. Ông giải thích: “Đức Chúa Trời yêu chúng ta bày tỏ ra trong điều này: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng trong khi chúng ta đã không yêu Ngài, thì Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội (tốt hơn, để thay thế) chúng ta ” (IGi1Ga 4:8-10).
Thập tự giá của Chúa Cứu thế có ý nghĩa theo rất nhiều phương diện. Là sinh tế vì tội lỗi chúng ta, là sự thay thế để chuộc tội (RoRm 3:25 IGi1Ga 2:2 4:10 đối chiếu HeDt 2:17); nghĩa là một phương tiện để dập tắt cơn thạnh nộ của chính Đức Chúa Trời chống lại chúng ta bằng cách xóa sạch tội lỗi chúng ta khỏi hiện diện Ngài (trong các bản RSV dịch mấy câu trên đây, “chuộc tội” chỉ có nghĩa là “xóa sạch tội lỗi chúng ta mà thôi”, dịch như vậy vẫn chưa đủ nghĩa). Là của lễ chuộc tội cho chúng ta, nó là việc phục hòa chúng ta với Đấng Tạo Hóa mà chúng ta đã xúc phạm, đã làm mặt lạ, đã chọc giận (RoRm 5:9-11). Chúng ta đã thiếu khôn ngoan khi khiến cho Đức Chúa Trời chống nghịch chúng ta là tội nhơn; điều đáng lẽ chúng ta phải làm là đề cao công lao Cứu Chứa đã hoàn tất vì chúng ta trong việc đem sự giải hòa, đem hòa bình đến để thay vào chỗ của sự thạnh nộ.
Một lần nữa, để giải hòa, thập tự giá là sự cứu chuộc, cứu vớt khỏi ách nô lệ và sự cùng khốn bằng cách trả một giá để chuộc (xem Eph Ep 1:7 RoRm 3:24 KhKh 5:9 Mac Mc 10:45), và với tư cách cứu chuộc, đó là sự chiến thắng đối với tất cả các thế lực thù địch kềm giữ chúng ta và vẫn còn muốn cầm giữ chúng ta trong tội lỗi, ngoài phạm vi có thể nhận được ân huệ của Đức Chúa Trời (CoCl 2:13-15). Muốn lãnh hội trọn vẹn chân lý này, chúng ta phải khám phá, khai mở tất cả các góc cạnh ấy.
“Con Đức Chúa Trời đã yêu tôi và phó chính mình Ngài vì tôi 'cho nên' tôi hẳn chẳng khoe mình (tự tôn), trừ ra khoe (đề cao) thập tự giá của Đức Chúa Giê-Xu Christ chúng ta” (GaGl 2:20 6:14). Phaolô đã nói như vậy. Tạ ơn Đức Chúa Trời, tôi đã có thể tự nhận diện chính mình. Còn bạn thì sao?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Ý nghĩa của thập tự giá: EsIs 53:1-12 RoRm 3:19-26 HeDt 10:1-25.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Các Cơ Đốc nhân tìm thấy trong từ ngữ “thương khó” (La tinh passus) phần ý nghĩa đầy đủ nào?
2. “Cả Đức Chúa Trời lẫn loài người đều chủ động trong sự thương khó của Chúa Giê-Xu”. Xin giải thích.
3. Sự chết của Chúa Cứu thế có công dụng gì đối với tội lỗi chúng ta?
NGÀI XUỐNG ÂM PHỦ
Sự chết đã được gọi là “điều ghê tởm”, thô tục, không một con người lịch sự nào ngày nay lại chịu đem ra nói trước công chúng. Nhưng cho dù người ta không muốn đề cập, sự chết vẫn là điều không thể tránh né. Có một sự kiện chắc chắn duy nhất ở đời, ấy là có một ngày nào đó, dầu có được báo trước hay không, dầu là nhẹ nhàng hay đau đớn, sự sống của con người phải dừng lại. Vậy, tôi phải đối phó với cái chết ra sao khi đến lượt mình?
CHIẾN THẮNG CỦA CƠ ĐỐC NHÂN
Các Cơ Đốc nhân chủ trương rằng Chúa Giê-Xu của Kinh Thánh vẫn còn sống và những ai tin nhận Ngài làm Cứu Chúa, Chúa tể, và là Bạn thân của mình đều tìm thấy trong sự nhận biết một giải pháp cho mọi vấn đề của đời sống mình, kể cả sự chết. Vì “Chúa Cứu thế chẳng đưa tôi qua những căn phòng nào, mà lại tối tăm hơn nơi Ngài từng đi qua trước rồi”. Sau khi đã tự mình nếm trải sự chết, Ngài có thể nâng đỡ chúng ta khi chúng ta sẽ nếm trải nó và đưa chúng ta vượt qua biến chuyển lớn lao đó để tham dự đời sống bên kia cõi chết mà chính Ngài từng vượt qua. Không có Chúa Cứu thế, cái chết là “nhà vua của sự kinh hoàng”, nhưng với Chúa Cứu thế sự chết đã bị mất hết “nọc độc” của nó, là năng lực gây tàn hại, nếu không có Ngài, sẽ vô cùng độc hại.
Nhân vật Thanh giáo là John Preston biết rõ điều này. Lúc ông hấp hối, người ta hỏi ông có sợ chết không, khi giờ đây, ông đang rất gần với nó. Ông Preston thì thào: “Không, tôi sẽ đổi chỗ ở, nhưng không đổi bạn đồng hành” Dường như ông muốn nói rằng: “Tôi sẽ lìa bỏ các bạn thân của mình, nhưng không xa lìa người Bạn Thân của tôi, vì người ấy chẳng bao giờ lìa bỏ tôi”.
Đây là sự chiến thắng - chiến thắng sự chết và nỗi sợ hãi nó đem đến. Chính vì muốn có con đường hướng về chiến thắng ấy nên trước khi thông báo sự phục sinh của Chúa Giê-Xu, Bài Tín Điều tuyên bố: “Ngài xuống âm phủ”. Tuy mãi đến thế kỷ thứ tư mới xác lập ý nghĩa của câu nói này trong Bài Tín Điều, do đó, một số các chi hội đã không dùng đến, nội dung có tầm quan trọng hết sức lớn lao, như chúng ta thấy hiện nay.
ÂM PHỦ - KHÔNG PHẢI HỎA NGỤC.
Trong bản dịch Anh văn, đã có sai lầm vì từ “hỏa ngục” (hell) đã đổi nghĩa từ khi hình thức Bài Tín Điều bằng Anh văn được xác định. Từ “địa ngục” (hell) nguyên có nghĩa là nơi người chết ở với từ Hades của Hi văn, và Sheol của Hi bá lai văn. Từ đó có ý nghĩa như vậy, khi Bài Tín Điều nhắc đến câu trong Thi Tv 16:10 “Vì Chúa chẳng bỏ linh hồn tôi trong nơi Âm phủ (Hades theo bản AV dịch là hell đúng ra là hỏa ngục, nhưng theo nghĩa xưa trong Anh văn như trên đã nói, tương đương với “địa ngục” trong Việt ngữ)”, một lời tiên tri được ứng nghiệm khi Chúa Giê-Xu sống lại (xem Cong Cv 2:27-31). Nhưng từ thế kỷ thứ mười bảy trở về sau, từ ngữ “hỏa ngục” (hell) được dùng để nói lên ý nghĩa duy nhất là việc trừng phạt sau cùng đối với những kẻ vô đạo, mà Tân Ước gọi là hỏa ngục (Geheuna).
Tuy nhiên, Bài Tín Điều muốn nói nơi Chúa Giê-Xu đã xuống, không phải là hỏa ngục (Geheuna), nhưng là Âm phủ (Hades) - nghĩa là Ngài đã chết thật sự và đã sống lại sau khi chết thật sự, chớ không phải chỉ giả chết thôi.
Thiết tưởng cần phải nói (tuy nhằm tránh nói quá tỉ mỉ về một việc đã quá hiển nhiên) rằng “xuống” không hề ngụ ý con đường từ Palestine đi Âm phủ (Hades) là đi xuống, đi vào trong lòng đất, cũng như khi bảo sống lại (Anh văn là rose) thì không hề ngụ ý rằng Chúa Giê-Xu đã trở về mặt đất, như ở dưới hầm mỏ lên! Sở dĩ nói “xuống” vì Âm phủ là một nơi vô hình cho nên xem là thấp hơn về giá trị và phẩm giá so với đời sống trên thế gian này, là nơi thân thể và linh hồn sống chung với nhau, và theo nghĩa đó, nhân tính là một toàn thể hiệp nhất.
CHÚA GIÊ-XU Ở ÂM PHỦ
“Về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần tâm linh (Spirit) thì được sống” (IPhi 1Pr 3:18) là tình trạng khi Chúa Giê-Xu đến Âm phủ, và Kinh Thánh kể lại cho chúng ta vắn tắt những gì Ngài đang làm tại đó.
Thứ nhất, Ngài hiện diện và đã biến Âm phủ thành thiên đàng (nơi vui vẻ) cho tên trộm cướp biết ăn năn sám hối (xem LuLc 23:43), do đó, cùng cho tất cả những người khác đã qua đời có lòng tin nơi Ngài suốt thời gian Ngài thi hành chức vụ trên đất, như Ngài hiện làm cho toàn thể những người trung tín với Ngài khi qua đời (xem Phi Pl 1: 21-23 IICo 2Cr 5:6-8).
Thứ hai, Ngài khiến tâm linh các tín hữu thời Cựu Ước trở thành trọn vẹn (HeDt 12:23 đối chiếu HeDt 11:40), đưa họ ra khỏi bóng tối âm u mà Âm phủ (Sheol) - “cái hầm” vẫn bao phủ họ - từ trước đến nay (đối chiếu Thi Tv 88:3-6, 10-12), để đưa họ vào nếm trải thiên đàng như bao người trước. Đây là tâm điểm của chân lý mà người thời Trung cổ đã tưởng tượng là “dọn sạch (bừa) hỏa ngục”.
Thứ ba, IPhi 1Pr 3:19 cho chúng ta biết Ngài “công bố (chủ quyền trên nước Ngài và việc Ngài được chỉ định làm Đấng phán xét thế gian) với các “tân binh” bị cầm tù vì đã phản loạn vào thời tiền đại hồng thủy (tức là các thiên sứ sa ngã của IPhi 1Pr 2:4 và tt, cũng là các con trai của Đức Chúa Trời” trong SaSt 6:1-4. Có một số người chỉ căn cứ vào văn bản này để hi vọng tất cả những người không được nghe Phúc âm trên đời này, hoặc đã nghe nhưng từ chối không tin nhận, sẽ được giảng đạo “vớt” trong đời sau, nhưng lời lẽ của Phierơ không hề có chút bảo đảm nào cho lối suy diễn như thế.
Tuy nhiên, điều khiến việc Chúa Giê-Xu xuống âm phủ trở thành quan trọng đối với chúng ta không nằm trong số các điểm trên, mà chỉ là sự kiện hiện chúng\ta có thể trực diện cái chết ý thức rằng một khi nó đến, chúng ta sẽ không còn cảm thấy mình bị cô đơn nữa. Ngài đã có mặt ở đó trước chúng ta, và Ngài sẽ lo toan để chúng ta được mọi sự an lành.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Thái độ của Cơ Đốc nhân đối với cái chết: Phi Pl 1:19-26 IICo 2Cr 5:1-10 IITi 2Tm 4:6-18.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Định nghĩa và phân biệt các từ ngữ Hades, Sheol và Geheuna trong Kinh Thánh .
2. Làm thế nào để chúng ta biết việc Chúa Giê-Xu kinh nghiệm sự chết là sự thật? Sự kiện ấy quan trọng như thế nào?
3. Có gì khác nhau khi chúng ta đối diện với cái chết có Chúa Cứu thế ở với mình, và không có Ngài?

NGÀY THỨ BA
Giả sử sau khi Chúa Giê-Xu chết trên thập tự giá, Ngài chết luôn. Giả sử, Ngài cũng như Socrates hay Khổng tử, đến nay vẫn được người ta nhớ đến, chỉ như một kỷ niệm đẹp suông, thì có gì quan trọng không? Chúng ta vẫn còn có tấm gương và những lời truyền dạy của Ngài; như thế vẫn chưa đủ sao?
Bài CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI LÀ TỐI QUAN TRỌNG
Sự kiện Chúa Giê-Xu sống lại rất quan trọng. nếu Chúa Giê-Xu không sống lại, vẫn còn nằm chết trong phần mộ, thì Cơ Đốc giáo đã bị mất đi phần nền tảng - như cái túi cái thùng bị mất đi phần đáy - vì bốn điều sau đây:
Thứ nhất, xin trích dẫn Phaolô “Nếu đấng Christ đã chẳng sống lại, thì đức tin của anh em cũng vô ích” (ICo1Cr 15:17).
Thứ hai, chúng ta cũng chẳng có hi vọng gì được sống lại nữa; chúng ta vẫn chờ đợi để cùng chết luôn.
Thứ ba, nếu Chúa Giê-Xu không sống lại, Ngài cũng không cầm quyền cai trị trong hiện tại, rồi cũng sẽ không tái lâm, và tất cả những tiết mục tiếp theo trong Bài Tín Điều “chịu thương khó...bị chôn” đều bị loại bỏ.
Thứ tư, Cơ Đốc giáo không như điều Cơ Đốc nhân đầu tiên vẫn nghĩ - tức là thông công với một Chúa hằng sống đã tự đồng nhất hóa với Chúa Giê-Xu của các sách Phúc âm. Nhân vật Giê-Xu của các sách Phúc âm có thể vẫn còn là vị anh hùng của bạn, nhưng không thể làm Cứu Chúa của bạn được.
MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ
Để chứng minh việc Chúa Giê-Xu phục sinh là một sự kiện, Bài Tín Điều thật sự minh định thời gian của sự việc ấy - “đến ngày thứ ba”, gồm luôn việc tính ngày (theo lối xưa) từ ngày Chúa Giê-Xu “bị đóng đinh dưới tay Bôn-xơ Philát” vào khoảng năm 30 SC. Đúng vào ngày ấy, tại Giêrusalem, thủ đô xứ Palestine, Chúa Giê-Xu đã sống lại, ra khỏi phần mộ đá, và cái chết bị chinh phục vĩnh viễn.
Chúng ta có biết chắc việc ấy đã xảy ra không? Chứng cứ hiển nhiên thật là vững chắc. Phần mộ trống không, và đã không có ai phát giác được thi thể của Ngài. Suốt hơn một tháng từ đó trở về sau, các môn đệ của Chúa Giê-Xu còn được gặp Ngài sau khi đã sống lại, thường là từng nhóm (từ hai cho đến năm trăm người), và luôn luôn ở trong trường hợp hết sức bất ngờ. Nếu là ảo giác, làm sao xảy ra như thế được?.
Về phần các môn đệ của Chúa, họ đều tin quyết việc Chúa Cứu thế sống lại không phải do tưởng tượng, nên đã không mệt mỏi loan báo sự sống lại của Ngài trước sự chế giễu, bách hại và cả cái chết nữa, đó là phương pháp hữu hiệu nhất để dập tắt tiếng đồn quỉ quyệt rằng họ đã ăn trộm xác của Chúa Giê-Xu (Mat Mt 28:11-15).
Từng trải tập thể của Hội thánh Cơ Đốc qua hơn mười chín thế kỷ đã củng cố niềm tin Chúa Giê-Xu đã sống lại, vì Chúa phục sinh quả thật đã “cùng đi và trò chuyện với tôi suốt nẻo đường nhỏ hẹp của cuộc đời”, và tương giao với Ngài là ý thức căn bản của Cơ Đốc nhân trong đời sống.
Căn cứ vào các bằng chứng hiển nhiên đó, không còn cách nói nào ý nghĩa hơn cho rằng Chúa Giê-Xu đã thật sự sống lại.
Cho nên giáo sư C.F.D.Moule đã rất đúng khi đưa ra lời thách thức: “Nếu sự ra đời của nhân vật người Naxarét, một hiện tượng đã được Tân Ước chứng thực không thể chối cãi, tạo ra một lỗ hổng lớn trong lịch sử, mà kích thước của nó tương đương với sự phục sinh, thì sử gia đời này có thể làm gì để vá nó lại?” Người ta không thể nào hiểu nổi hậu quả thật sự đã xảy ra trong lịch sử, nếu không có việc Chúa Giê-Xu sống lại là nguyên nhân khách quan của lịch sử.
ĐỐI DIỆN VỚI BẰNG CHỨNG
Trong một cuộc tranh luận công khai, một Cơ Đốc nhân đã tố cáo đối thủ hoài nghi của mình là có nhiều đức tin hơn mình - ông ta nói: “vì đứng trước một bằng chứng hiển nhiên, tôi không thể tin được là Chúa Giê-Xu đã không sống lại, nhưng ông ta thì lại có thể tin!” Quả thật không tin Chúa Giê-Xu đã phục sinh, còn rất khó hơn là tin nhận điều đó. bạn đã nhìn thấy như vậy chưa? Tin rằng Chúa Cứu thế Giê-Xu là Con Đức Chúa Trời và là Cứu Chúa hằng sống, để nhắc lại câu nói của con người nghi ngờ trước kia là Thô-ma rằng: “Lạy Chúa tôi và là Đức Chúa Trời tôi” chắc chắn hơn hẳn việc phải vận dụng lý trí, nhưng đối diện những bằng chứng hiển nhiên về điều đó, tin như vậy là điều hợp lý duy nhất mà con người có thể làm.
CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI CÓ NGHĨA GÌ?
Chúa Giê-Xu sống lại có nghĩa gì? Nói tóm tắt, là làm nổi bật sự kiện Chúa Giê-Xu là Con Đức Chúa Trời (RoRm 1:4); đề cao sự công chính của Ngài (GiGa 16:10); chứng minh sự chiến thắng đối với sự chết (Cong Cv 2:24); bảo đảm người tín hữu được tha tội và xưng công bình (ICo1Cr 15:17 RoRm 4:25) và cho sự sống lại của người ấy trong tương lai (ICo1Cr 15:18); cũng đưa người ấy vào trong thực tại của đời sống phục sinh hiện nay nữa (RoRm 6:4). Thật kỳ diệu biết bao! Bạn có thể nói về sự phục sinh của Chúa Giê-Xu như điều đầy dẫy hi vọng hơn hết, điều chưa hề xảy ra - và bạn làm như thế là tất phải lẽ.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Sự phục sinh của Chúa Giê-Xu: GiGa 20:1-18 ICo1Cr 15:1-26
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Nếu Chúa Giê-Xu không sống lại, Cơ Đốc giáo sẽ khác hẳn đi như thế nào?
2. Có bằng chứng nào cho sự sống lại của Chúa Giê-Xu?
3. Tại sao tác giả nói rằng tin Chúa Giê-Xu sống lại là “điều hợp lý duy nhất mà con người có thể làm được”? Bạn đồng ý không?

NGÀI THĂNG THIÊN
“Ngài thăng...” lập lại câu Chúa Giê-Xu phán: “Ta lên” (GiGa 20:17 đối chiếu 6:62). “Thiên” là âm vang của câu “được cất lên trời khỏi giữa các ngươi” các vị thiên sứ đã nói trong câu chuyện Chúa thăng thiên (Cong Cv 1:10). Nhưng “thiên” là gì? Đó là bầu trời, hay vùng ngoại tầng không gian? Phải chăng Bài Tín Điều ngụ ý bảo rằng Chúa Giê-Xu là phi hành gia vũ trụ đầu tiên? Không phải, cả hai việc trên và Kinh Thánh đều đề cập một vấn đề khác hẳn nhau.
THIÊN CÓ NGHĨA GÌ
Trong Kinh Thánh, từ ngữ “trời”, hay “thiên” có ba nghĩa: 1) Sự sống vô cùng vô tận, tự hữu của Đức Chúa Trời. Theo nghĩa này, Đức Chúa Trời luôn luôn ngự trên trời ngay khi chưa có thế gian (đất) này. 2) Tình trạng của các thiên sứ hay những người được chia xẻ sự sống của Đức Chúa Trời, dầu chỉ nếm trải trước trong đời này hay trọn vẹn, đầy đủ trong đời sau. Theo nghĩa này, tất cả phần thưởng, kho báu và gia tài của Cơ Đốc nhân ở “trên trời” và “thiên đàng” là cách nói tắt về niềm hi vọng cuối cùng của Cơ Đốc nhân. 3) Bầu trời phía trên chúng ta thật vô hạn hơn bất luận điều gì chúng được biết là một biểu tượng cho sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong không gian và thời gian, như cái mống (cầu vồng) là biểu tượng của giao ước đời đời vậy (xem SaSt 9:8-17).
Kinh Thánh và Bài Tín Điều công bố rằng bốn mươi ngày sau khi sống lại, Chúa Giê-Xu thăng thiên, nghĩa là lên trời theo nghĩa thứ hai. Sự việc đã xảy ra thật mới mẻ và chỉ trong chớp mắt. Từ đó, “Ngài ngồi bên hữu Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha”, cai trị mọi sự nhân danh Cha Ngài và bằng quyền thế toàn năng của Cha Ngài, để đời đời những người thuộc về Ngài được lợi ích. “Bên hữu Đức Chúa Trời” không có nghĩa là một nơi chốn có cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng là một chức vị thuộc nhà vua: xem Cong Cv 2:33 RoRm 8: 34 Eph Ep 1:20 HeDt 1:3,13 10:12 12:2. Ngài “lên trên hết các từng trời” (nghĩa là trở vào cuộc sống tiền-nhập thể, một đời sống chẳng hề bị một vật thọ tạo nào hạn chế) “để làm cho đầy dẫy mọi sự” (nghĩa là để khiến cho vương quyền của Ngài có hiệu lực khắp nơi; xem Eph Ep 4:10) “thăng” dĩ nhiên là một từ ngữ gợi hình, ngụ ý được đề cao, tôn cao (vinh thăng!), đặt vào một địa vị có phẩm giá và thế lực tối cao.
SỰ THĂNG THIÊN
Như vậy, việc xảy ra khi Chúa Giê-Xu thăng thiên không phải là Chúa Giê-Xu đã trở thành một con người của vũ trụ, nhưng là việc của các môn đệ Ngài được chỉ cho thấy một dấu hiệu như khi Ngài biến hình. Như C.S.Lewis viết: “trước hết họ nhìn thấy một sự di chuyển thẳng đứng ngắc ngủi và sau đó là một làn ánh sáng mơ hồ (như “mây” vậy) rồi không còn thấy gì nữa cả”. Nói khác đi, việc Chúa Giê-Xu ra đi lần cuối cùng và người ta không còn trông thấy Ngài nữa để cầm quyền cai trị cho đến lúc Ngài trở lại để thi hành việc phán xét, đã được trình bày dưới những đôi mắt xác thịt của các môn đệ Ngài, như là việc lên trời theo nghĩa thứ ba. Chúng ta đừng nên ngạc nhiên về điều đó. Dầu sao Ngài cũng phải ra đi, còn đi lên, đi xuống hay đi ngang, không hiện ra nữa hay bỗng dưng biến mất, tất cả đều chỉ là những cách có thể xảy ra. Có gì ý nghĩa hơn từ nay trở đi, Chúa Giê-Xu sẽ cai trị cầm quyền cai trị vinh hiển? Chính điều đó mới là câu trả lời.
Cho nên bức thông điệp của Chúa thăng thiên là: “Cứu Chúa Giê-Xu đang trị vì!”
LÒNG CHÚNG TA ĐỂ Ở TRÊN TRỜI
Trong thế giới suy nhược ở đó các triết gia nghiêm trọng nhất vẫn khuyên rằng tự tử là cách chọn lựa khôn ngoan nhất cho con người, chủ nghĩa lạc quan bất khả chuyển lay, khuynh đảo, của các Cơ Đốc nhân đầu tiên dường như đã tạo được ấn tượng mạnh họ cảm thấy mình đang đứng trên thế gian cho dù thế gian đang đè ép mình (ấn tượng ấy vẫn còn cho đến khi các Cơ Đốc nhân thật sự đủ tư cách Cơ Đốc nhân để chứng minh điều đó). Bí quyết của việc đó, là ba điều chắc chắn sau đây:
Thứ nhất liên quan đến thế gian này của Đức Chúa Trời. Chính Chúa Cứu thế đang thực sự cai trị nó; Ngài đã thắng trận quyết định trên các thế lực của sự tối tăm và đã chế phục nó; và khi nào sự kiện ấy lộ ra chỉ còn là vấn đề thời gian. Hiện nay cuộc chiến tranh giữa Đức Chúa Trời với Sa tan cũng giống như một ván cờ trong đó ai thắng ai bại đã rõ rồi, nhưng bên thua vẫn chưa chịu bỏ cuộc, hay như đang vào giai đoạn cuối cùng của hai kẻ đánh nhau, trong đó địch thủ sắp bại trận đang ngoan cố phản công, tuy có dữ dội và thường xuyên, nhưng sẽ không thể nào thành công và đang bị chiến lược của người chiến thắng bao vây cho nên chỉ bị xem như trò múa rối mà thôi. Có người muốn rằng cách định niên lịch của chúng ta (theo người Tây phương là A.D., nghĩa là anno Domini: năm của Chúa chúng ta mà chúng ta viết là SC: sau Chúa) được bắt đầu với ý định đánh dấu Ngày sanh của Chúa Giê-Xu (tuy có lẽ bị trễ đi vài năm) đáng lẽ phải được tính từ năm Chúa Giê-Xu bị đóng đinh vào thập tự giá, sống
lại rồi thăng thiên; vì đó mới chính là lúc quyền làm Chúa tể của Chúa Giê-Xu trở thành một sự kiện nổi bật toàn cầu như hiện nay.
Điều chắc chắn thứ hai liên quan đến Chúa Cứu thế của Đức Chúa Trời. Chính Chúa chúng ta đang cai trị, đang “cầu thay” cho chúng ta (RoRm 8:34 HeDt 7:25) theo nghĩa Ngài đang xuất hiện “trước hiện diện của Đức Chúa Trời” để “bệnh vực, bào chữa, biện hộ” cho chúng ta (IGi1Ga 2:1) để bảo đảm cho chúng ta nhận được” ân điển để giúp đỡ khi chúng ta có nhu cầu (HeDt 4:16), do đó, cũng được gìn giữ đến cùng trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời (lời biện hộ của Đấng Chăn Chiên Hiền Lành trong GiGa 10:27-29). “Cầu thay” không nói lên việc van xin kêu gọi bố thí, nhưng là sự can thiệp của một Đấng có quyền thế và năng lực tể trị, đòi hỏi và hành động vì quyền lợi của một người khác. Có người đã nói rất đúng rằng chính Chúa hiện diện và đời sống của Chúa chúng ta trên thiên đàng với cương vị nhà vua thầy tế lễ được tôn vương, đích thân Đấng đến chuộc tội cho chúng ta, tự nó đã là lời cầu thay của Ngài rồi; chính vì Ngài đang có mặt ở đó đã đủ bảo đảm để chúng ta nhận được đủ các ân huệ và cả sự vinh hiển nữa.
Một bài hát rao hồi thế kỷ thứ mười tám nói lên sự chắc chắn ấy bằng những lời lẽ khiến con tim hồi hộp reo mừng:
Tình yêu thương đã khiến Ngài chịu chết; và tôi nương cậy tình yêu ấy. Cứu Chúa đã yêu tôi, tôi không hiểu vì sao, nhưng có thể nhận thấy. Tôi và Ngài kết hợp với nhau, Ngài sẽ không vui hưởng vinh hiển bỏ tôi lại đàng sau.
Điều chắc chắn thứ ba liên quan đến dân sự của Đức Chúa Trời. Đây là vấn đề kinh nghiệm Chúa ban cũng như sự thông hiểu do Ngài truyền dạy. Ấy là các Cơ Đốc nhân được hưởng ngay trong đời này, và ngay bây giờ một đời sống thông công kín giấu với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà chẳng có gì - kể cả chính sự chết - có thể đụng chạm đến, vì đó là đời sống trong thế giới hầu đến nhưng đã bắt đầu rồi, đời sống thiên đàng được nếm trước ngay trên đất này. Cách giải nghĩa kinh nghiệm mà toàn thể dân Đức Chúa Trời đều biết trong một chừng mực nào đó, ấy là các tín hữu đã thật sự từng trải qua sự chết (không phải như một biến cố thuộc thể, nhưng có tính cách cá nhân và tâm lý) để vào sự sống đời đời ở phía bên kia: “Anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Chúa Cứu thế trong Đức Chúa Trời” (CoCl 3:3 đối chiếu 2:12 RoRm 6:3,4) “Đang khi chúng ta chết...Ngài (ĐứcChúa Trời) làm cho chúng ta sống (lại) với Đấng Christ và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Chúa Cứu thế Giê-Xu” (Eph Ep 2:4 và tt).
Sách cầu nguyện sưu tập cho ngày lễ thăng thiên những lời cầu xin Đức Chúa Trời “ban cho...như điều chúng con tin nơi Con một Ngài là Đức Chúa Giê-Xu Christ, đã thăng thiên, để cả tấm lòng và tâm trí chúng con cũng có thể bay lên và cùng ở với Ngài luôn”. Nguyện chúng ta có thể làm được chính việc ấy nhờ quyền năng của ba điều chắc chắn này.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Ý nghĩa của việc Chúa thăng thiên: Cong Cv 1:1-11 Eph Ep 1:15-2:10
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Chúa Giê-Xu đã thăng thiên theo ý nghĩa nào? Ngài sẽ trở lại (tái lâm) theo ý nghĩa nào?
2. Hiện nay Chúa Cứu thế đang làm gì? Chức vụ đó của Ngài trên thiên đàng quan trọng như thế nào đối với chúng ta?

NGÀI SẼ TRỞ LẠI
Tâm điểm của Bài Tín Điều là làm chứng về quá khứ, hiện tại và tương lai của Chúa Cứu thế Giê-Xu: sự giáng sanh, chịu chết, sống lại và thăng thiên trong quá khứ; sự trị vì của Ngài trong hiện tại; và việc Ngài sẽ tái lâm trong tương lai để phán xét, “kẻ sống và kẻ chết”. Kinh Thánh cho chúng ta biết rồi đây thân thể chúng ta sẽ sống lại và được sự sống đời đời trọn vẹn như Bài Tín Điều nói. Bấy giờ một trật tự vũ trụ mới cũng sẽ bắt đầu. Sẽ có một ngày tái lâm trọng đại (Mat Mt 25:14-46 Gia Gc 5:25-29 RoRm 8:18-24 IIPhi 2Pr 3:10-13 KhKh 20:11-21:4).
HI VỌNG CỦA CƠ ĐỐC NHÂN
Không có chỗ nào, sức mạnh của Bài tín Điều như một hiến chương cho đời sống được vạch ra rõ ràng hơn ở đây. Trên thế giới ngày nay, bi quan chủ nghĩa sở dĩ lan tràn, vì người ta thiếu mất hi vọng. Trước mắt họ chỉ có bom đạn, sự phá sản, và sự yếu đuối mòn mỏi của tuổi già - chẳng có gì còn giá trị cả. Người cộng sản và những người theo chứng nhân của Đức Giêhôva lôi cuốn thiên hạ bằng các đề nghị sáng sủa là tạo ra thiên đàng ngay trên đất này - trường hợp trước tiếp sau một cuộc Cách mạng, và trường hợp sau tiếp theo trận Hamaghêđôn; nhưng niềm hi vọng Cơ Đốc giáo vượt hơn cả hai - niềm hi vọng của nhân vật kiên định của John Bunyan bảo rằng “cứ suy nghĩ về con đường tôi đang đi...trong lòng tôi như có cục than đang cháy rực” Bài Tín Điều cũng nêu cao niềm hy vọng ấy khi tuyên bố rằng ” Ngài sẽ trở lại”
Theo một ý nghĩa, Chúa Cứu thế sẽ đến với từng Cơ Đốc nhân khi người ấy qua đời, nhưng bài tín Điều nhìn về ngày Ngài sẽ công khai lật đổ lịch sử và phán xét mọi người: Với tư cách các Cơ Đốc nhân đã được tiếp nhận, với một “phần thưởng nhưng không được mua bằng huyết” đang chờ đợi những người đã trung tín trong chức vụ của mình; những kẻ phản loạn sẽ bị Ông Chủ chối bỏ vì họ đã chối bỏ Ngài trước. Cuộc phán xét của Chúa Giê-Xu là “quan án công bình” (IITi 2Tm 4:8 đối chiếu 2:5-11) sẽ không nêu ra các vấn đề về luân lý đạo đức.
CHẮC CHẮN VÀ VINH QUANG
Có một số người nghĩ rằng điều ấy sẽ không xảy ra - nhưng chúng ta có lời của Đức Chúa Trời đề cập việc ấy, và các nhà khoa học ngày nay cho chúng ta biết một cuộc chiến tranh hạt nhân hay đại họa tận thế là điều thật sự có thể xảy ra. Chúa Cứu thế tái lâm là chuyện không thể hình dung nổi, nhưng óc tưởng tượng của con người cũng không thể nào theo kịp quyền phép của Đức Chúa Trời, và Chúa Giê-Xu đang đồng thời hiện diện với triệu triệu người hiện nay, lúc ấy, cũng sẽ hiện diện một cách hữu hình cho cả nhân loại phục sinh nhìn thấy. Chúng ta không biết bao giờ Ngài sẽ tái lâm (cho nên chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng), cũng không biết Ngài sẽ đến như thế nào (tại sao không phải là lúc quả bom nổ?) - nhưng “Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy” (IGi1Ga 3:2) - và đó chính là sự hiểu biết vậy! “Lạy Chúa Giê-Xu, xin hãy đến!” (KhKh 22:20)
TÌNH TRẠNG MÙ MỜ
Niềm hi vọng về Chúa Cứu thế tái lâm từng khiến cho các Cơ Đốc nhân Tân Ước nức lòng mừng rỡ, bằng chứng đã có trên 300 câu người ta có thể dùng làm tài liệu tham khảo - trung bình có một trên mười ba câu. Nhưng với chúng ta việc ấy đã không gây được phấn khởi nhưng làm lo âu bối rối nhiều hơn. Tại sao lại có tình trạng mù mờ như vậy? Dường như chỉ bốn lý do chính:
Thứ nhất, vì đây là thời kỳ phản kháng một thế kỷ rưỡi nghiên cứu ráo riết lời tiên tri, nói lên một tinh thần bi quan thiếu cầu nguyện của Hội Thánh và tách rời khỏi thế gian sự chờ đợi của một số phận. Tinh thần ấy cùng với chủ nghĩa giáo điều độc đoán đi đôi với nó liên hệ cả đến dấu hiệu lẫn ngày giờ Chúa Cứu thế tái lâm (bất chấp Mac Mc 13:32 và Cong Cv 1:7) là việc làm không thể biện minh và đã gây tiếng xấu cho vấn đề ấy.
Thứ hai, đây là thời kỳ của hoài nghi chủ nghĩa, thắc mắc chính Chúa Cứu thế có sống lại và thăng thiên với cả phần thân xác hay không, nên theo lẽ tự nhiên, việc ấy làm nảy sinh nghi ngờ, chúng ta có hi vọng còn thấy lại Ngài được nữa hay không.
Thứ ba, đây là một thời kỳ của sự nhút nhát, trong đó các Cơ Đốc nhân khi tranh cãi với chủ nghĩa duy vật tự túc tự mãn thế tục của Tây phương và các ý thức hệ Mác-xít, lại phân vân không dám đối đầu việc quá chú trọng vào “thế gian này” của họ, e rằng họ sẽ tố ngược lại bằng cách châm chọc các Cơ Đốc nhân đã chẳng quan tâm gì đến công bằng xã hội và kinh tế. Do đó sự kiện Đấng Christ sẽ kết thúc thế gian này và thành phần tốt đẹp nhất nơi niềm hi vọng của Cơ Đốc nhân vượt ra ngoài mối bận tâm đó, nên bị loại trừ.
Thứ tư, đây là thời kỳ lo nghĩ đến chuyện đời, ít ra cũng giữa vòng các Cơ Đốc nhân giàu có bên Tây phương. Chúng ta ngày càng suy nghĩ ít hơn về những điều tốt hơn mà Chúa Cứu thế sẽ đem đến cho chúng ta khi Ngài trở lại, bởi vì tư tưởng chúng ta ngày càng bị những điều tốt đẹp chúng ta hưởng thụ dưới đất này thu hút. Chẳng có ai muốn ngược đãi hay làm hại người khác, nhưng ai phủ nhận được làm như vậy, họ đã không làm ích lợi gì cho chúng ta cả?
Cả bốn thái độ trên không lành mạnh và không xứng đáng. Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua những điểm đó.
HÃY SẴN SÀNG
Cứu Chúa từng dạy các môn đệ Ngài: “Các ngươi cũng hãy chực cho sẵn, vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ” (Mat Mt 24:44). Chúng ta phải chực cho sẵn như thế nào? Bằng cách tính sổ ngắn hạn với Đức Chúa Trời và loài người; bằng cách chỉ lo sống ngày nào đủ cho ngày ấy, như Chúa Giê-Xu từng dạy (Mat Mt 6:34), và bằng cách lưu ý tới lời khuyên của bài thánh ca của giám mục Ken: “hãy sống hằng ngày như đó là ngày cuối cùng”. hãy lập ngân quỹ và kế hoạch cho thời gian một năm, nhưng về tinh thần, hãy thu xếp sao cho có thể sẵn sàng từ bỏ đời này bất cứ lúc nào. Đây phải là phần kỷ luật dành cho thì giờ tĩnh nguyện để bồi linh hằng ngày. Lúc Chúa đến, Ngài muốn thấy người thuộc về Ngài đang cầu nguyện cho sự phục hưng và lập kế hoạch cho việc truyền giảng Tin Lành cho cả thế gian - nhưng phải thu xếp để dầu sao cũng phải có thể từ bỏ tất cả. Nếu các hướng đạo sinh có thể học tập sống thực tế theo câu khẩu hiệu “Hãy sẵn sàng” đối với mọi việc bình thường có thể xảy ra, tại sao các Cơ Đốc nhân lại chậm chạp, không chịu học bài học đó, liên quan với biến cố Chúa Cứu thế sẽ tái lâm chỉ trong chớp mắt?”
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Thái độ của Cơ Đốc nhân đối với sự tái lâm của Chúa Cứu thế: LuLc 12:35-48 ITe1Tx 4:13-5:11 IIPhi 2Pr 3:1-22.
CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Vì sao chúng ta đặt hi vọng nơi sự tái lâm của Chúa Cứu thế trong tương lai?
2. Khi Chúa Cứu thế trở lại, Ngài sẽ làm gì? bạn phản ứng ra sao khi biết như vậy?
3. Kinh Thánh không nói gì liên hệ đến thời điểm Chúa Cứu thế tái lâm? Theo bạn nghĩ, Tại sao Đức Chúa Trời lại giữ lại phần thông tin đó?

TÔI TIN ĐỨC THÁNH LINH
Từ ngữ “linh” (ghost) nguyên nghĩa là năng lực tâm lý trong một người, còn niềm tin vào các linh (ma quỉ thần thánh theo nghĩa hiện đại) phản ảnh niềm tin mà phần năng lực đó của con người vẫn còn có thể hành động khi thân thể không còn nữa. Theo nghĩa này, “linh” là một từ ngữ tốt nói lên ý niệm linh (spirit) trong Kinh Thánh, vì các từ ngữ Hi bá lai (ruach) và Hy lạp (pneuma) chỉ gió, đều có nghĩa là năng lực cá nhân của cả loài người lẫn Đức Chúa Trời. Nhưng, như hiện nay từ ngữ “ma quỉ thần thánh” gợi ý về một điều gì đáng ghê sợ, cho nên tốt hơn hết chúng ta nên gọi người thứ ba của Ba Ngôi Đức Chúa trời là Đức Thánh Linh.
Phân đoạn thứ ba của Bài Tín Điều bắt đầu bằng câu “Tôi tin Đức Thánh Linh”. Từ công trình sáng tạo muôn vật của Đức Chúa Cha, công lao cứu chuộc của Đức Chúa Con, bài tín điều chuyển sang đề cập công tác tái tạo của Đức Thánh Linh, nhờ đó loài người thật sự được dựng nên mới qua trung gian Đấng Christ. Cho nên chúng ta được nghe nói về Hội Thánh (cộng đồng mới) sự tha tội (mối liên hệ mới) sự sống lại (đời sống mới) và sự sống đời đời (sự hoàn thiện mới). Nhưng trước hết, hãy đến với lời xưng nhận đức tin đến chính Đức Thánh Linh.
LINH CỦA ĐẤNG CHRIST
Ngài là Đấng thánh khiết. Ngài là một ngôi hoạt động tích cực, Ngôi Chấp Hành trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Nhưng hành động và nhằm mục tiêu nào? Ở đây có rất nhiều sai lầm. Có người kết hợp Đức Thánh Linh với tình trạng cảm hứng thần bí và nghệ thuật - số người này gồm cả Cơ Đốc nhân lẫn người ngoại đạo. Có người chỉ kết hợp Đức Thánh Linh với kinh nghiệm bất thường của Cơ Đốc nhân mà thôi - cảm thấy những điều cao siêu, thấy khải tượng, được mặc khải, nói tiếng lạ, chữa bệnh. Nhưng các hành động ấy chỉ là yếu tố thứ yếu trong công tác của Đức Thánh Linh, tuy tất cả do Đức Thánh Linh mà ra.
Cựu Ước đề cập Đức Thánh Linh kết hợp với công cuộc sáng tạo trời đất muôn vật, cả về phương diện Đức Chúa Trời (SaSt 1:2) lẫn về phương diện loài người (XuXh 31:1-6); về việc Đức Chúa Trời linh cảm các phát ngôn nhân của Ngài (EsIs 6:1, Bài Tín Điều vạch rõ Đức Thánh Linh “nhờ các nhà tiên tri nói ra"); về việc trang bị cho các tôi tớ Đức Chúa Trời (Các quan xét, Các vua,v.v..; chẳng hạn Cac Tl 13:25 14:19 EsIs 11:2 XaDr 4:6); về việc kêu gọi lòng tin kính nơi các cá nhân và cộng đồng (Exe Ed 36:26 37:1-14 XaDr 12:10). Tất cả những điều đó có ý nghĩa sâu nhiệm hơn trong Tân Ước, là nơi Đức Thánh Linh được trình bày như một thân vị đại diện Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, và được đề cập với tư cách “Thánh Linh của Đấng Christ” (RoRm 8:9 IPhi 1Pr 1:11).
Chìa khóa để thấu hiểu quan điểm của Tân Ước về công tác của Đức Thánh Linh, là phải thấy chủ đích của Ngài hoàn toàn đồng nhất với Đức Chúa Cha, nghĩa là muốn thấy Đức Chúa Con được vinh hiển và ca ngợi.
Thứ nhất, Đức Thánh Linh đã phục vụ Đức Chúa Con qua suốt cuộc đời tại thế của Ngài bắt đầu từ lúc Bài tín Điều nói là Ngài được đầu thai bởi Đức Thánh Linh” (Mat Mt 1:20). Đức Thánh Linh lấy hình chim bồ câu giáng xuống trên Ngài lúc chịu phép Báp-tem chẳng những chứng minh rằng Ngài là Đấng ban Thánh Linh, mà còn cho thấy rằng chính Ngài được đổ đầy Đức Thánh Linh nữa (LuLc 4:1 đối chiếu các câu LuLc 4:14, 18). Ấy là “nhờ Đức Thánh Linh đời đời” mà Ngài đã dâng mình làm sinh tế cho chúng ta (HeDt 9:14).
Thứ hai, Đức Thánh Linh hiện hành động với tư cách người đại diện cho Chúa Giê-Xu, một “Đấng Yên ủi (giúp đỡ, nâng đỡ, bênh vực, khích lệ) khác”. Ngài chỉ cho chúng ta thấy Chúa Giê-Xu trong Phúc âm, kết hợp chúng ta với Ngài bởi đức tin, và ngự trong chúng ta để biến đổi chúng ta trở nên “giống như Ngài” bằng cách khiến “trái của Thánh linh” tăng trưởng trong chúng ta (IICo 2Cr 3:18 GaGl 5:22 và tt).
“Ngài sẽ làm sáng danh ta (chớ không phải chính Ngài), vì Ngài sẽ lấy đều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (GiGa 16:14). Những lời nói trên đây của Chúa Giê-Xu vạch rõ đặc tính tự-giấu-mình-đi của Đức Thánh Linh; các nhiệm vụ của Ngài là rọi ra những tia sáng chói rạng trên Đấng Christ, để chính Đấng Christ chớ không phải Đức Thánh Linh, Đấng được chúng ta nhìn thấy trong thông điệp Phúc âm, Chúa Giê-Xu đứng đợi chúng ta, để bảo rằng: “Hãy đến cùng ta; hãy theo ta”. Trong lương tâm mình, khi chúng ta lắng nghe Phúc âm bằng lỗ tai bên trong của đức tin, thì Đức Thánh Linh đứng sau lưng chúng ta dường như để chiếu ánh sáng qua vai chúng ta vào Chúa Giê-Xu, và thường xuyên khuyến giục: Hãy đến với Ngài; hãy giải quyết mọi nan đề với Ngài; Chúng ta đang làm theo, và chính điều đó khiến chúng ta trở thành Cơ Đốc nhân.
LỜI CHỨNG VÀ CHỨC VỤ
Đức Thánh Linh là chứng nhân và là giáo sư (IGi1Ga 5:7 2:27 đối chiếu 4:2 và tt) vì trước hết, Ngài thuyết phục chúng ta rằng Chúa Giê-Xu của Phúc âm, Đấng Christ của Tân Ước, quả có thật, và Ngài sở dĩ có mặt, là “vì loài người chúng ta và vì sự cứu rỗi chúng ta”; thứ hai, Ngài bảo đảm với chúng ta rằng với cương vị các tín hữu, chúng ta đều là con cái Đức Chúa Trời và đồng kế tự với Đấng Christ (RoRm 8:16 và tt) thứ ba, Ngài cảm động, thúc giục chúng ta làm chứng nhân cho Đấng Christ, Đấng mà lời chứng của Ngài đã dẫn chúng ta tới chỗ nhận biết (xrm GiGa 15:26). Nhưng điều Đức Thánh Linh làm chứng, không phải là sự mặc khải riêng về những gì cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ, nhưng là những gì chính Ngài đã tiếp nhận từ lời chứng công khai của Đức Chúa Trời đã “có” qua suốt Kinh Thánh, nhưng vẫn chưa được quan tâm chú ý. Phaolô đã mô tả công tác làm chứng của Đức Thánh Linh khi ông nói về việc “soi sáng con mắt của lòng anh em” (Eph Ep 1:18).
Thứ ba, Đức Thánh Linh ban cho mỗi Cơ Đốc nhân một hoặc nhiều ân tứ (nghĩa là những khả năng giới thiệu, trình bày về Đấng Christ để phục vụ Đức Chúa Trời và người ta) sao cho “chức vụ của từng chi thể” trong Hội Thánh, là thân thể Đấng Christ, đều trở thành thực tại (ICo1Cr 12:4-7 Eph Ep 4:11-16). Chức vụ đa phương này cũng chính là chức vụ của Đấng Christ tuy đã về trời nhưng vẫn được tiếp tục qua trung gian chúng ta, là tay là chân, là môi miệng Ngài; và người được Đức Thánh Linh ban ân tứ phải xem như mình đang phục vụ và làm sáng danh Đấng Christ nhiều hơn nữa, cũng như Ngài là phương tiện qua đó chính chức vụ của Đấng Christ đối với loài người có thể cứ được tiếp tục.
CÁC DẤU HIỆU CỦA ĐỨC THÁNH LINH
Vậy, đâu là các dấu hiệu cho thấy Đức Thánh Linh tự giấu mặt của Đấng Christ vẫn đang hành động? Không phải là những cảnh nhảy múa reo vui thần bí, cũng không phải là các khải tượng, hay những điều được cho là sự mặc khải, cũng không phải cả đến quyền phép chữa bệnh, nói tiếng lạ hay các phép lạ rõ ràng; vì Sa tan vẫn hay lợi dụng tình trạng tâm sinh lý phức tạp và dễ sa ngã, thất bại của chúng ta để tạo ra những điều đó (xem IITe 2Tx 2:9 CoCl 2:18). Chỉ có các dấu hiệu chắc chắn duy nhất, ấy là Đấng Christ của Kinh Thánh được mọi người tin nhận, nương cậy, yêu thương, vì cớ ân điển Ngài và được phục vụ để tôn vinh, và các tín hữu thật sự xây khỏi tội lỗi để sống thánh khiết, trở thành hình tượng của Đấng Christ giữa dân Ngài (xem ICo1Cr 12:3,2 IICo 2Cr 3:17). Trên đây là các tiêu chuẩn chúng ta phải căn cứ vào để phê phán, chẳng hạn như “phong trào phục hưng tình thương” (the charismatic renewal) hiện đại, và Cơ Đốc giáo khoa học (Christian Science) có lẽ là hai trường hợp sẽ được phán xử rất khác nhau.
Vậy khi với tư cách Cơ Đốc nhân, tôi nói: “Tôi tin Đức Thánh Linh”, ý tôi muốn nói rằng, thứ nhất, tôi tin sự thông công cá nhân qua không gian và thời gian, với Đấng Christ hằng sống của Tân Ước là có thật mà tôi có thể tìm thấy qua Đức Thánh Linh; thứ hai - tôi đang mở lòng ra để được Đức Thánh Linh hiện đang ngự trong tôi hướng dẫn mình, để tôi có thể đi vào sự nhận biết, vâng lời và phục vụ Chúa, và tôi trông mong mình được chỉ dẫn hằng ngày; và thứ ba - tôi ca ngợi chúc tụng Ngài là tác giả của lòng tin quyết trong tôi rằng một là con cái và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ. Vậy tin Đức Thánh Linh là điều vô cùng quang vinh.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Chức vụ của Đức Thánh Linh: GiGa 7:37-39 14:15-26 16:7-15 RoRm 8:1-17
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM
1. Công tác của Đức Thánh linh khác công tác của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con như thế nào?
2. Là “đại diện cho Chúa Giê-Xu” Đức Thánh Linh đang làm gì?
3. Bạn sẽ nói gì với một người tự xưng là Cơ Đốc nhân nhưng nghi ngờ không biết mình có kinh nghiệm gì về chức vụ của Đức Thánh Linh hay chưa?
HỘI THÁNH PHỔ THÔNG
Chính vì muốn triệt để bám sát luận lý thần học, nên Bài Tín Điều xưng nhận đức tin vào Đức Thánh Linh trước khi xưng nhận đức tin đặt vào Hội Thánh, và đề cập Hội Thánh trước khi bàn đến sự cứu rỗi cá nhân (tha tội, sống lại, sống đời đời). Vì trong Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con đã yêu thương Hội Thánh, Đức Chúa Con đã cứu chuộc Hội Thánh, chính Đức Thánh Linh mới tạo lập Hội Thánh bằng cách ban cho người ta có đức tin; và chính trong Hội thánh, qua chức vụ và sự thông công, người ta mới hưởng được sự cứu rỗi cá nhân một cách bình thường.
Rủi thay, ngay tại điểm này đã có sự khác biệt. Cả người Công giáo La mã lẫn các tín đồ Tin Lành đều đọc Bài Tín Điều, nhưng họ lại chia rẽ nhau. tại sao vậy? Về căn bản, ấy là vì cách hiểu khác nhau câu “Tôi tin Hội Thánh phổ thông” - “một Hội Thánh phổ thông và của các sứ đồ”, như thật Bài tín Điều đã ghi như vậy.
KHÔNG THỐNG NHẤT GIỮA LA MÃ GIÁO VÀ TIN LÀNH
Lời truyền dạy chính thức của Công giáo La mã giới thiệu Hội thánh Đấng Christ như là một tổ chức (Organised body) duy nhất gồm những người đã chịu phép Báp-tem, tương giao với Giáo hoàng và thừa nhận lời truyền dạy cũng như thẩm quyền cai trị của hàng giáo phẩm. Sở dĩ nó là thánh vì nó tạo ra những con người thánh thiện, được bảo vệ khỏi phần tội lỗi căn bản; sở dĩ nó là phổ thông (công giáo, catholic) vì khi lan tràn khắp thế gian, giáo hội ấy vẫn phó thác cùng một đức tin đầy đủ trọn vẹn cho mọi người giữ làm của tin; và sở dĩ bảo là của các sứ đồ bởi vì các phẩm trật của hàng chức sắc bắt nguồn từ các sứ đồ, và đức tin của các giáo hội ấy (gồm luôn các tiết mục không thấy có trong Kinh Thánh như sự thăng thiên của bà Mari và sự hoài thai vô nhiễm của bà, thánh lễ Misa, và sự vô ngộ của Giáo hoàng) là sự tăng trưởng thuần chánh (sound) từ nguồn gốc là các sứ đồ. Các tổ chức không phải La mã giáo, tuy có giống với hội Thánh đến đâu đi chăng nữa, nhất thiết điều không thuộc về Hội Thánh.
Người Tin Lành dựa vào Kinh thánh để thánh thức chủ trương đó. Họ bảo rằng theo Kinh Thánh dạy, Hội Thánh là toàn khối duy nhất những người tin rằng Đấng Christ là Đầu mình trên khắp thế giới và đang thông công với nhau. Sở dĩ nó là thánh vì đã được cung hiến cho Đức Chúa Trời (tuy không phải là nó không có thể phạm tội trầm trọng); sở dĩ nó là phổ thông vì bao gồm toàn thể các Cơ Đốc nhân ở khắp nơi; và sở dĩ nó là của các sứ đồ vì nó luôn luôn tìm cách duy trì các giáo lý của các sứ đồ cho khỏi bị pha trộn. Giáo hoàng, giáo phẩm và các giáo thuyết ngoài Kinh Thánh chẳng những không phải là thiết yếu mà thật ra còn lệch lạc, làm biến dạng Hội Thánh nữa; nếu La mã là một Hội thánh (điều mà một số các nhà Cải Chánh nghi ngờ) thì nó là một Hội Thánh bất chấp những gì được thêm vào, chớ không phải vì những điều đã được thêm vào đó. Đặc biệt là vô ngộ tính chỉ thuộc về một mình Đức Chúa Trời phán dạy trong Kinh Thánh, chớ không thuộc về Hội Thánh hay bất kỳ một chức sắc nào trong Hội Thánh, và bất luận trong một lời truyền dạy nào được đưa ra trong Hội Thánh hay bởi Hội thánh đều có thể chịu sửa sai do điều mà Điều khoản XX của bài điều lệ Anh quốc giáo gọi là “lời thành văn của Đức Chúa Trời”
Một số người Tin Lành đã lấy vế “sự thông công của các thánh đồ” tiếp sau “Hội Thánh phổ thông” làm điểm soi sáng cho chính Bài Tín Điều về Hội Thánh là gì, tức là vác Cơ Đốc nhân thông công với nhau - và chỉ có việc ấy mà thôi, bất chấp một cơ cấu giáo phẩm đặc biệt nào khác. Nhưng thông thường nên xem câu này, như lời xác nhận sự hiệp một thật sự trong Đấng Christ của Hội thánh “đang chiến đấu trên đất này” với Hội thánh đang chiến thắng khải hoàn, như HeDt 12:22-24 đã vạch rõ; và rất có thể là vế ấy nguyên có nghĩa là sự thông công trong những việc thánh (lời lẽ, thánh lễ, sự thờ phượng, lời cầu nguyện) nói lên sự thật nhưng điểm phân biệt, là trong Hội Thánh, đã thật sự chia xẻ với nhau trong sự sống của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, quan điểm “thuộc linh” chủ trương rằng Hội thánh là một sự thông công trước hơn là một tổ chức đã được Kinh Thánh xác nhận mà không cần gì phải nhờ đến vế này, dù ý nghĩa của nó cũng rất cần thiết
TÂN ƯỚC.
Bảo rằng Tân Ước trình bày quan điểm Tin Lành thì khó ai tranh cãi gì được (vấn đề tranh luận là tân Ước có phải là uy quyền tối hậu, dứt khoát hay không!) Hội Thánh xuất hiện trong mối liên hệ ba Ngôi, như là gia đình của Đức Chúa Cha, thân thể của Đấng Christ là Đức Chúa Con, và là đền thờ (nơi ngự) của Đức Thánh Linh, và bao lâu các thánh lễ chính còn được cử hành về việc quản lý về chức vụ còn được thực thi, không thể cứ đòi hỏi phải có một số mẫu mực về tổ chức nào cả. Hội Thánh là xã hội siêu nhiên của những người đã được Đức Chúa Trời cứu chuộc và đã chịu phép Báp-tem đang nhìn trở về thời Đấng Christ giáng lâm lần thứ nhất với tấm lòng tri ân, và nhìn tới ngày Ngài tái lâm, với tấm lòng tràn đầy hi vọng. “Sự sống của (anh em) đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. Khi nào Đấng Christ là sự sống của anh em sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (CoCl 3:3 và tt) - đó là Hội Thánh trong tình hình hiện tại và trong viễn ảnh tương lai. Hướng về niềm hi vọng ấy, cả hai thánh lễ đều - phép Báp-tem hình bóng về sự sống lại sau cùng, còn Tiệc Thánh thì báo trước “tiệc cưới Chiên Con” (KhKh 19:9).
Tuy nhiên, hiện tại tất cả các Hội Thánh (như các Hội Thánh tại Côrinhtô, Côlôse, Galati, và Têsalônica, không cần phải kể thêm) đều có thể sai lầm cả trong đức tin lẫn các vấn đề về đạo đức, và đều cần luôn luôn được sửa sai và cải cách về một bình diện (tri thức, bồi linh, tổ chức, giáo nghi) bởi Đức Thánh Linh qua Lời Đức Chúa Trời.
Nền thần học Tin Lành về sự phục hưng lần đầu tiên được đề cập vào các thế kỷ thứ mười bảy và mười tám, với sự dấy lên của “cuộc phục hưng tình thương” (charismatic renewal) trên phạm vi toàn thế giới, nhắc chúng ta nhớ lại về điều mà Giáo hội Công giáo La mã và Giáo hội Tin lành tranh cãi với nhau, khi vì quá chú trọng vào chân lý của giáo lý, đã có khuynh hướng nhằm sai mục tiêu - tức là các Hội thánh phải luôn luôn mở rộng cửa cho quyền làm chúa trực tiếp của Đức Thánh Linh, và thà có một hội chúng đầy sinh lực nhưng thiếu trật tự, còn hơn là một hội chúng đâu vào đấy nhưng đã chết cứng.
CHI HỘI ĐỊA PHƯƠNG
Sự thử nghiệm quyết định để biết tình trạng trong một Hội Thánh là những gì xảy ra trong một chi hội địa phương. Mỗi hội chúng địa phương là kết quả thấy được của một giáo hội phổ thông, được kêu gọi để phục vụ Đức Chúa Trời và người ta trong sự khiêm hạ, và có lẽ là còn cần phải chịu sỉ nhục nữa, trong khi sống chờ đợi sự vinh hiển. Được đổ đầy Đức Thánh Linh để thờ phượng và làm chứng đạo, tích cực trong tình yêu thương và lo lắng chăm sóc cho cả người bên trong lẫn bên ngoài như nhau, tự-trị tự-túc và tự-bành-trướng, mỗi hội chúng phải là một mũi nhọn trong cuộc phân công của Đức Chúa Trời nhằm chinh phục thế gian phản loạn này.
Một câu hỏi nhỏ để kết thúc: hội chúng của bạn đang tiến triển ra sao?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Bản tính và vận mệnh của Hội Thánh: IPhi 1Pr 2:1-24 Eph Ep 2:11-4:16.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Người Công giáo La mã sử dụng Tân Ước khác với người Tin Lành như thế nào? Việc làm đó ảnh hưởng đến quan điểm mà mỗi giáo hội chủ trương như thế nào?
2. Tác giả định nghĩa “sự thông công của các thánh đồ” như thế nào? bạn có đồng ý với điều ông nói không? Tại sao có, tại sao không?
3. Chức năng của một chi hội Cơ Đốc địa phương trong mối liên hệ với giáo hội phổ thông là gì?
SỰ THA TỘI
Tội là gì? Sách yếu lý ngắn hơn Westminster nói tội là “bất cứ việc gì không phù hợp hay vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời”. Đây là âm vang của IGi1Ga 3:4 “phạm tội tức là trái luật pháp”. Nó còn nhiều khía cạnh khác nữa. Nó là trái luật trong mối liên hệ với Đức Chúa Trời là Đấng ban bố luật pháp, là phản loạn đối với Đức Chúa Trời là nhà vua, nhà cầm quyền hợp pháp; là sai trật mục tiêu trong mối liên hệ kế hoạch khi tạo dựng chúng ta; là phạm tội đối với Đức Chúa Trời với tư cách quan tòa; và là ô uế bất khiết đối với Đức Chúa Trời là Đấng Thánh.
Tội là sự sai lệch đụng chạm đến mọi người chúng ta về mọi mặt trong đời sống chúng ta. Ngoài Chúa Giê-Xu, không hề có người nào khỏi bị ô nhiễm. Nó xuất hiện trong các ước muốn, dục vọng cũng như trong hành động, trong các động lực thúc đẩy cũng như trong việc làm. Cho nên Sách cầu nguyện của Anh quốc giáo đã dạy chúng ta rất đúng rằng: “Chúng ta đã noi theo các mưu định và dục vọng của chính lòng ta quá nhiều...Chúng ta đã bỏ qua không làm những việc đáng lẽ chúng ta phải làm, nhưng lại làm những việc mà đáng lẽ chúng ta không nên làm, cho nên (về phương diện thuộc linh mà nói) chúng ta không có sức khỏe”
Trước mặt Đức Chúa Trời, tôi là vấn đề của tất cả mọi người, vì Ngài có “đôi mắt thánh sạch chẳng nhìn sự dữ” và “chẳng có thể nhìn được sự trái ngược” (HaKb 1:12). Nhưng chúng ta nhận thấy đời sống là một bãi mìn đạo đức càng cố tìm cách trốn tránh tội lỗi, chúng ta lại càng thương gặp hơn - và khi nhận ra mình đang bước đi trên con đường không nên đi thì đã quá muộn, chúng ta bị tan tành thành từng mảnh vụn nếu căn cứ vào sự đòi hỏi là chúng ta phải yêu mến Đức Chúa Trời và người lân cận mình. Sự việc đó sẽ đưa chúng ta đến đâu? “Cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình” (RoRm 1:18).
Tuy nhiên, Tin Lành, tin mừng là “tội lỗi có thể được tha thứ”. Tâm điểm của Phúc âm là “nhưng” của Thi Tv 130:3 “Hỡi Đức Giêhôva, nếu Ngài cố chấp sự gian ác, thì Chúa ôi, ai sẽ còn sống? Nhưng Chúa có lòng tha thứ cho, để người ta kính sợ Chúa” - nghĩa là để người ta lấy lòng ngay thật thờ phượng Ngài (vì đó chính là ý nghĩa của từ ngữ kính sợ Đức Chúa Trời).
QUAN TRỌNG VÀ CÓ THẬT
Tha tội là tha thứ trong bối cảnh con người với nhau. Đó là nhận lại một người chống lại mình, gây tổn hại cho mình, tự gây chuyện một cách sai trái với mình, lẫn bạn. Đó là lòng khoan dung (tỏ ra tử tế với kẻ làm quấy không đáng được đối xử tử tế như vậy), là hành động xây dựng (tái lập mối liên hệ đã bị phá hủy) - và điều không thể trốn khỏi, là nó đòi hỏi phải trả giá.
Sự tha tội của Đức Chúa Trời là một thí dụ tối cao về việc ấy, vì bởi tình yêu thương Ngài, Đức Chúa Trời đã phục hồi sự thông công với loài người với giá phải trả là thập tự giá.
Nếu tội lỗi chúng ta không được tha, chúng ta sẽ ra sao? Một lương tâm xấu (bị cắn rứt) là kinh nghiệm hết sức phổ quát, và gây đau khổ nhiều nhất. Chẳng hề có sự thay đổi bên ngoài nào xoa dịu được; bạn phải mang nó theo mình suốt những giờ thao thức không tài nào ngủ được. Bạn càng “có lương tâm”, càng biết rõ là mình đối xử sai quấy với tha nhân, và với Đức Chúa Trời nữa, bạn sẽ càng bị “ám ảnh” nặng nề hơn. Nếu không được tha tội, bạn sẽ không bao giờ được bình an. Một lương tâm cắn rứt bạn với toàn thể sức lực của nó, sẽ nhân danh Đức Chúa Trời để xé tan bạn ra từng mảnh vụn - và đó tất nhiên là hỏa ngục, ngay trong đời này và cả ở đời sau nữa.
LUTHER BIẾT RẤT RÕ.
Một người bối rối lo lắng về tội, đã viết thư cho Luther. Bản thân nhà Cải chánh cũng vô cùng đau khổ từ lâu về vấn đề ấy, đã trả lời: “Hãy học biết về Đấng Christ, và Đấng Christ đã bị đóng đinh vào thập tự giá. Hãy học tập ca ngợi Ngài, rằng: Lạy Chúa Giê-Xu, Ngài là sự công chính của con, còn con là tội lỗi của Ngài. Ngài nhận cho mình điều của con để con nhận lấy điều của Ngài. Ngài đã trở thành người vốn không phải là Ngài, để con trở thành người vốn không phải là con”. Hãy đối chiếu với Phaolô: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (IICo 2Cr 5:21). Hãy tự buộc chặt mình vào với Chúa Giê-Xu là Đấng hằng sống bởi đức tin, thì cuộc trao đổi quan trọng sẽ được hoàn tất. Bởi sự chết chuộc tội của Chúa Giê-Xu, Đức Chúa Trời sẽ vui nhận bạn với tư cách người công chính, và quăng xa các tội lỗi của bạn. Đó là sự xưng công bình, là tha tội, là bình an.
Phaolô trong hai thư tín Rôma và Galati, và sau ông là các nhà cải chánh, từng đề cập sự xưng công bình mà không nói về sự tha tội. Sở dĩ như vậy, vì xưng công bình có nghĩa là tha tội cộng với...; nó không phải chỉ có nghĩa là xóa đi quá khứ mà thôi, nhưng còn là được cứu và được ban cho quy chế dành cho con người công chính trong tương lai nữa. Hơn nữa, sự công bình có tính cách quyết định dứt khoát, là điều mà Đức Chúa Trời không bao giờ đổi ý, do đó, nó là nền tảng của sự bảo đảm chắc chắn, trong khi sự tha tội hiện tại không nhất thiết có nghĩa gì hơn là sự chịu đựng tạm thời. Cho nên sự xưng công bình - việc được công khai tuyên án tha bổng và phục hồi địa vị trước tòa án của Đức Chúa Trời - thật ra là một ý niệm rất phong phú.
CHỈ BỞI ĐỨC TIN MÀ THÔI
Trong quá khứ (hiện nay sự việc kém rõ ràng hơn) người Công giáo la mã không lãnh hội được tính cách quyết định của sự xưng công bình trong hiện tại, cũng không nhìn thấy sự công chính của Đấng Christ ("sự vâng lời và huyết của Cứu Chúatôi” như Toplady nói) chính là nền tảng trọn vẹn của nó, cũng không nhận thức được rằng về phần chúng ta phải thôi cố công ra sức để chiếm đoạt nó, mà chỉ nhận lấy như món quà tặng không của ân điển Đức Chúa Trời. Cho nên họ nhấn mạnh rằng các thánh lễ, “những việc lành”, và sự đau đớn trong ngục luyện tội ở đời sau là các phương tiện vần thiết để cuối cùng tội nhơn mới được cứu, bởi vì những điều đó thuộc trong số các nền tảng phải có để được cứu rỗi. Nhưng các nhà cải chánh Tin Lành, cũng như Phaolô tin rằng tội nhơn được cứu rỗi trọn vẹn và dứt khoát nhờ hành động quyết định tha tội ngay hiện đây, và họ bảo rằng chỉ nhờ đức tin mà thôi.
Tại sao lại chỉ nhờ đức tin mà thôi? Bởi vì chỉ có sự công chính của Đấng Christ là nền tảng duy nhất để tội nhơn được tha tội và được bình an, Đấng Christ và các ân tứ Ngài chỉ được nhận lãnh bằng cách lấy đức tin tiếp nhận cho mình mà thôi. Đức tin không những chỉ có nghĩa là tin vào chân lý của Đức Chúa Trời, mà còn tin cậy Đấng Christ nhận lấy điều Ngài ban cho, rồi vui mừng cách đắc thắng vì biết những gì mình đã nhận.
Quà tặng là sự tha tội bởi đức tin của Đức Chúa Trời, đã trở thành của riêng của bạn chưa? Người ta rất dễ đánh mất nó. Phaolô bảo là dân Do thái đã bị hụt mất; tấn thảm kịch của họ, ấy là lòng sốt sắng của họ về Đức Chúa Trời đã đưa họ tới chỗ cố công ra sức thiết lập lấy sự công bình riêng (nghĩa là muốn cố công ra sức để tự chiếm đoạt lấy sự cứu rỗi nơi Đức Chúa Trời), chớ họ “không chịu đầu phục sự công chính của Đức Chúa Trời” (nghĩa là thuận phục phương pháp tha tội và xưng công bình của Ngài, là chỉ bởi đức tin vào Đấng Christ mà thôi): xin xem RoRm 10:2 và tt. Sự thật đau thương ấy là tội nhân chúng ta đều-tự-cho-mình-là-công-bình tận tâm can, và chúng ta luôn luôn tự bào chữa, tự xưng mình là công chính; chúng ta thù ghét việc thừa nhận trong chúng ta có điều gì sai quấy, một cái gì đó khiến cho Đức Chúa Trời hoặc loài người phải chống lại chúng ta; và chúng ta phải dùng võ lực đối với các bản năng lệch lạc của chúng ta trong vấn đề này, trước khi chúng ta có thể nhận được đức tin. Đức Chúa Trời cứu rỗi tất cả chúng ta, đều bằng cách là diễn tấn thảm kịch của dân Do thái trong đời sống chúng ta.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Nhờ Đấng Christ được xưng công bình bởi đức tin, chớ không phải bởi việc làm: RoRm 5:1-21 10:1-13 GaGl 2:15-3:29 Phi Pl 3:4-16
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tha thứ là gì, và nó có hiệu quả như thế nào đối với kẻ được tha thứ trên bình diện loài người với nhau?
2. Luther ngụ ý gì khi ông nói: “Ngài đã trở thành người vốn không phải là Ngài, để con trở thành người vốn không phải là con?”
3. Tại sao sự tha tội có hiệu lực chỉ bởi đức tin mà thôi?

SỰ SỐNG LẠI CỦA THÂN THỂ
Kinh Thánh xem sự chết - là điều chắc chắn phải xảy đến cho đời sống con người - không như một bạn thân nhưng như một kẻ hủy diệt. Khi thân thể và linh hồn tôi chưa rõ nhau, tôi sẽ chỉ còn là cái bóng của chính tôi trước kia. Thân xác tôi là một thành phần của tôi, một bộ phận để chính tôi tự bộ lộ chính mình; nếu không có nó, mọi năng lực của tôi để làm việc nọ, việc kia và để bắt liên lạc với đồng bào tôi đều không còn. hãy nghĩ về một người tận dụng được mọi tài năng của mình, so với một kẻ bại liệt; rồi hãy so sánh một kẻ bại liệt với một ai đó hoàn toàn không có thân xác, bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Những người bại liệt có thể làm việc này việc nọ, tuy rất ít; người không có thân xác lại càng làm ít hơn nữa. Như vậy, sự chết, tuy chưa chấm dứt nhưng đã vô hiệu hóa đời sống của chúng ta, và theo một ý nghĩa thật sự, là đã tiêu diệt nó.
ĐỐI PHÓ VỚI SỰ CHẾT
Sự chết là vấn đề căn bản của con người, vì nếu chết thật ra là hết, sẽ chẳng còn gì có ý nghĩa, có giá trị nữa, ngoài ra việc tự do phóng túng, tự buông thả bản thân. “Nếu kẻ chết chẳng sống lại, thì hãy ăn, hãy uống, vì ngày mai chúng ta sẽ chết” (ICo1Cr 15:32). Và không có triết lý hay tôn giáo nào không giải quyết được vấn đề sự chết, mà lại thật sự chẳng đem lại ích lợi cho chúng ta.
Tuy nhiên, trong vấn đề này Cơ Đốc giáo vượt trội hơn hết. Trong số các đạo và các triết thuyết trên thế gian này, chỉ duy có Cơ Đốc giáo mới nhìn thấy sự chết đã bị chinh phục, bị đánh bại. Ví Cơ Đốc giáo là hi vọng căn cứ trên sự kiện - sự kiện là thân thể Chúa Giê-Xu đã từ phần mộ sống lại, và hiện sống đời đời trên thiên đàng. Niềm hi vọng đó, ấy là khi Chúa Giê-Xu trở lại - ngày mà lịch sử dừng lại và thế gian này kết thúc - Ngài sẽ “biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài” (Phi Pl 3:21 đối chiếu IGi1Ga 3:2). Niềm hi vọng này bao gồm toàn thể những người đã chết trong Đấng Christ luôn với các Cơ Đốc nhân hãy còn sống khi Ngài hiện đến: “vì giờ đến, khi mọi người ở trong mồ mả nghe tiếng Ngài và ra khỏi; ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán” (GiGa 5:28 và tt). Và việc thân thể sống lại có nghĩa là cả con người được phục hồi - không phải chỉ là một phần của con người tôi mà thôi, nhưng là toàn thể con người - để sống một cuộc đời hoạt động, sáng tạo cho Đức Chúa Trời và với Đức Chúa Trời, nghĩa là sẽ chẳng bao giờ còn phải chết nữa.
THÂN THỂ MỚI.
Khi khiến các tín hữu sống lại, Đức Chúa Trời kiện toàn việc cứu chuộc họ - không phải bằng cách sửa chữa lại các thân xác cũ của họ theo một cách thức nào đó - nhưng là ban cho họ những thân thể mới phù hợp với những con người mới. Qua việc tái sanh và thánh hóa, Đức Chúa Trời đã tái tạo bề trong của họ rồi; bấy giờ, họ sẽ nhận được các thân thể tương xứng. Thân thể mới liên hệ chặt chẽ với thân thể cũ, nhưng khác hẳn với thân thể cũ, như những cái này liên hệ mật thiết, nhưng cũng khác hẳn với các hột giống mà chúng từ đó mọc lên (xem ICo1Cr 15:35-44). Thân thể hiện tại của tôi - mà Francis of Assisi muốn tôi gọi là “người anh em như con lừa ngốc nghếch” của tôi - cũng giống như chiếc xe cổ lỗ thời sinh viên của mình, cho dù tôi o bế chăm chút đến đâu đi chăng nữa, nó vẫn sẽ cứ là chiếc xe cà tòng chẳng bao giờ có thể chạy thật tốt cả và thường bỏ tôi với Thầy tôi giữa đường (thật đáng chán!) Nhưng thân thể mới của tôi sẽ có hình dáng và khả năng của một chiếc xe tốt nhất và sự phục vụ của tôi sẽ không còn bị nó phá hỏng nữa.
Chẳng có gì để nghi ngờ là cũng như tôi, bạn vừa yêu thích chính thân thể mình, bởi vì nó chính là một phần của bản thân bạn, mà cũng vừa giận điên lên vì nó kềm chế, giới hạn mình. Chúng ta đều phải cam chịu như vậy. Nhưng thật là điều hay khi biết được rằng mục đích của Đức Chúa Trời khi ban cho chúng ta những thân thể hạng nhì như vậy trên đời này, ấy là để chuẩn bị cho chúng ta biết điều khiển, vận dụng tốt hơn các thân thể trong đời sau. Như C.S.Lewis có nói ở đâu đó rằng, người ta sở dĩ đưa cho bạn một con ngựa chẳng ra gì để tập cỡi, là để một khi đã cỡi được nó rồi, bạn sẽ được cấp cho một con ngựa khác biết phi nước đại và biết nhảy vượt rào.
Tôi biết có một người lùn đã khóc vì vui sướng khi nghĩ đến thân thể Đức Chúa Trời đang để dành cho anh ta vào ngày mọi người sống lại, và khi nghĩ đến nhiều Cơ Đốc nhân khác tôi biết, có một khuyết tật nào đó trên thân thể - dị dạng, ốm yếu, bại liệt, các tuyến nội tiết bị mất thăng bằng hay gặp trở ngại về một mặt nào đó - tôi cũng phát khóc vì niềm vui đặc biệt sẽ dành cho họ đó - và cả cho bạn, cho tôi nữa - khi ngày ấy hiện ra.
HỒN VÀ XÁC
Có lẽ Bài Tín Điều đưa vào mấy chữ ngắn ngủi này để xua đuổi ý niệm (rất phổ biến suốt ba trăm năm sau thời Đấng Christ và không phải là không có hiện nay) rằng niềm hi vọng về bất tử bất diệt của con người là cho linh hồn (người ta đã nghĩ như vậy) nếu được thoát ly khỏi thân xác sẽ tốt hơn. Đã có một câu nói ngắn tóm tắt quan điểm này: “Thân thể là một phần mộ”. Nhưng câu đó đã bị chứng minh là sai, cả đối với vật chất (mà Đức Chúa Trời đã tạo ra nó lấy làm thích thú, và tuyên bố là tốt lành) lẫn đối với con người (không phải là một linh hồn cao thượng có thể tự chữa mình về những điều đáng xấu hổ mình làm bằng cách trách cứ chúng là do phần vỏ vật chất thô vụng của mình, nhưng là một đơn vị tâm sinh lý mà tình trạng đạo đức trực tiếp bộc lộ qua chính cách ăn ở cư xử của thân thể). Hậu quả gây rối loạn của tội lỗi được thấy rất rõ ràng qua những tham muốn của thể xác tôi (xin miễn nói thêm); nhưng vì tất cả những dục vọng đó đều là một phần của chính tôi, tôi phải nhận trách nhiệm đạo đức về bất cứ cách bộc lộ tích cực nào của chúng. Giáo lý về đoán xét của Kinh Thánh, là “mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt” (IICo 2Cr 5:10).
GIỐNG NHƯ ĐẤNG CHRIST
Lời hứa rằng có ngày chúng ta sẽ có những thân thể “giống như thân thể vinh hiển Ngài” (Phi Pl 3:20 và tt) là điều thách thức chúng ta: Có quả thật là tự thâm tâm, chúng ta hoan nghinh và tiếp nhận số phận đã được hứa cho chúng ta, là sẽ trở nên giống như Đấng Christ không? (xem IGi1Ga 3:2 và tt). Trực diện với vấn đề này có thể là khoảnh khắc để chúng ta thành thật với chính mình. Với một số người, thấy rằng cả cuộc đời của họ chỉ làm thỏa mãn các thú vui thể xác (trụy lạc, ăn ngủ, vui chơi, bạo động, nghiện rượu hay các chất ma túy “nặng” khác, hoặc bất cứ làm gì - cho nên cảm thấy nếu bị cất hết những điều đó họ sẽ chỉ còn là khổ đau mà thôi - khổ thay, sự việc cũng quả đúng như vậy; và họ nhìn thấy Chúa Giê-Xu, Đấng không hề bị dẫn vào các thú vui thể xác như vậy, như là “con người Galilê xanh xao” mà hơi thở khiến thế gian này trở nên lạnh lẽo - theo Swinburne; còn D.H.Lawrence muốn nhân hóa (hermanize) Ngài (tôi dùng động từ nhân hóa này theo cách nói của Lawrence, dầu đây là chữ vô nghĩa phi lý nhất mà tôi viết ra) bằng cách tưởng tượng ra sinh hoạt tình dục của Ngài với một nữ tư tế ngoại đạo. Một cách nhìn như vậy khiến cho ý niệm trở nên giống như Chúa Giê-Xu - chỉ dừng ở đó chớ không có gì hơn nữa - nghe ra như một bản án tử hình nhưng vẫn để cho còn sống. Vậy, tự thâm tâm, bạn nghĩ về những điều đó như thế nào?
Nếu bạn cũng nghĩ như thế, chỉ còn một điều nữa để nói với bạn mà thôi. Hãy cầu nguyện xin Đức Chúa Trời chỉ cho bạn hiểu được đời sống của Chúa Giê-Xu, cả xác lẫn hồn, là đời sống đầy đủ trọn vẹn nhất của một con người tự cố chí kim, để bạn cứ chăm nhìn xem Ngài khi bạn gặp Ngài trong các sách Phúc âm, cho đến khi nào bạn đã nếm biết rõ như vậy. Lúc đó, viễn ảnh muốn trở nên giống như ngài - chỉ điều đó thôi, chớ không phải điều gì kém hơn thế - đối với bạn, sẽ trở thành một số phận cao thượng và huy hoàng nhất có thể có, và một khi chấp nhận nữa, bạn sẽ trở thành mộ đệ chân chính của Ngài. Nhưng đến khi nào bạn thấy được điều đó - xin bạn hãy tin tôi: tôi không lừa gạt bạn đâu: sẽ chẳng còn chút hi vọng gì cho bạn cả.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Niềm hy vọng về sự phục sinh: Mac Mc 12:18-27 ICo1Cr 15:35-58 Phi Pl 3:4-16
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao một tôn giáo không giải quyết được vấn đề sự chết là vô giá trị đối với chúng ta?
2. Có bằng cớ hiển nhiên nào kinh Thánh đưa ra để chứng minh rằng sự chết đã bị chinh phục?
3. Chúng ta có thể nói gì về điều mình được biết liên hệ đến tình trạng người được sống lại?

SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Những người hoài nghi như Fred Hayle và Bertrand Russell đã quá cố, nói với chúng ta rằng về một tương lai vô cùng vô tận khiến họ kinh hoàng; vì (họ bảo rằng) như thế thì phiền lắm! Rõ ràng, họ nhận đời sống trên đất này thật phiền phức, nên không thể tưởng tượng nổi làm thế nào để đời đời sống con người có thể mãi mãi thích thú đáng sống và có giá trị. Thật là những con người khốn khổ! Ở đây, chúng ta thấy các hậu quả tai hại của đời sống bất kính vô đạo, và bi quan chủ nghĩa đen tối nó dẫn người ta tới.
Nhưng không phải tất cả những người hiện đại đều giống như Hayle và Russell. Có người rất muốn sống mãi không chết. Do đó mà họ quan tâm đến các hiện tượng thông linh học, cho rằng đó là bằng cớ về sự tồn tại (sau khi người ta đã chết rồi). Nhưng có ba sự kiện cần lưu ý. Thứ nhất “các thông điệp” từ những người đã khuất chẳng có gì quan trọng và chỉ là những gì mà kẻ tin vào đó bị ám ảnh mà thôi. Thứ hai, “các thông điệp” ấy không đến từ những người từng bước đi thật gần gũi với Đức Chúa Trời khi còn sống. Thứ ba, đồng bóng và những kẻ bị họ “sai khiến” đều bối rối khi nghe đến danh Chúa Giê-Xu. Các sự kiện ấy cảnh cáo chúng ta rằng các hiện tượng thông linh học, dầu có được giải thích đúng đi nữa, đều chỉ là việc tin tưởng mù quáng muốn tra vấn tìm hiểu về “niềm hy vọng phước hạnh của sự sống đời đời” mà thôi.
HIỆN DIỆN CỦA CHÚA GIE-XU TẠO RA THIÊN ĐÀNG
Khi Bài Tín Điều nói về sự sống đời đời” không ngụ ý chỉ đề cập sự tồn tại vô cùng vô tận mà thôi (ma quỉ và các linh hồn bị chết mất cũng tồn tại đời đời), nhưng nói về niềm vui tối hậu mà Chúa Giê-Xu đã đi vào (HeDt 12:2) mà Ngài đã hứa và cầu nguyện một ngày kia những người theo Ngài sẽ cùng được chung hưởng với Ngài. “Nếu...ta ở đâu, thì kẻ hầu việc ta cũng sẽ ở đó; nếu ai hầu việc ta, thì Cha ta ắt sẽ tôn quí người. Cha ôi, Con muốn Con ở đâu thì những kẻ Cha đã giao cho Con cũng sẽ ở đó với Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con” (GiGa 12:26, 17-24)
Ở với Chúa Giê-Xu là yếu tính của thiên đàng, đó là sự sống đời đời. Nhân vật kiên định của Bunyan nói: “Trước kia, tôi sống theo điều mình nghe người ta nói và tin theo; bây giờ thì tôi sống bằng mắt thấy, và tôi sẽ được ở với Ngài, mà chỉ cần được đi cùng, được kết bạn, là tôi đã thỏa nguyện rồi”. Chúng ta sẽ làm gì trên thiên đàng? Không phải chỉ đi dạo chơi quanh quẩn khắp đó đây! nhưng là để thờ phượng, làm việc, suy nghĩ, và tương giao, vui vẻ hoạt động, thưởng thức vẻ đẹp với những con người thánh thiện, và với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên trước nhất và sau cùng, chúng ta sẽ được nhìn thấy và yêu thương Chúa Giê-Xu, là Cứu Chúa, là Thầy, là Chủ và là Bạn thân của chúng ta.
NIỀM VUI BẤT TẬN
Tính cách “đời đời bất diệt” của đời sống ấy được một nhân vật vô danh, nói lên cách sinh động hơn hết khi thêm vào bài thơ nhan đề “Ân điển diệu kỳ” của John Newton mấy câu sau đây: “Khi chúng ta được ở đó muôn năm. Chói sáng như mặt trời, chúng ta cũng sẽ không thiếu những ngày ca hát tán tụng Đức Chúa Trời, hơn điều chúng ta đã làm khi mới bắt đầu”.
Tôi rất phấn khởi khi viết mấy dòng này, vì sự sống đời đời là điều tôi đang trông đợi. Tại sao vậy? Không phải vì tôi đã chán ngán cuộc sống tôi trên đời này - trái lại! Đời sống tôi tràn đầy niềm vui từ bốn nguồn mạch: được biết Đức Chúa Trời và người ta, được hưởng những điều tốt lành, lý thú mà Đức Chúa Trời và những người quyền Ngài đã sáng tạo, được làm những công việc mà Đức Chúa Trời xem là có giá trị, và bản thân tôi được làm người của Đức Chúa Trời. Nhưng những gì được dành cho tôi vượt quá những điều tôi có thể nắm bắt được. Các mối liên hệ tiếp xúc của tôi với Đức Chúa Trời và mọi người chưa bao giờ được phong phú và đầy đủ như ý tôi muốn, và tôi luôn luôn muốn tìm nhiều hơn điều mình nghĩ là có ở đó về những gì vĩ đại liên hệ đến âm nhạc, thi ca, sách vở và con người, và chiếc kính vạn hoa để nhìn trật tự thiên nhiên này. Jelly-Roll-Morton ca ngợi nhạc jazz: “Dường như càng có được bao nhiêu, tôi càng muốn có nhiều hơn nữa...” - và có 1001 điều (kể cả nhạc jazz của Morton nữa) mà chính tôi có thể nói y như Morton đã nói về nhạc jazz vậy.
Càng cao tuổi, tôi nhận thấy mình càng tôn kính Đức Chúa Trời, tất cả mọi người, những điều tốt lành, xinh đẹp và cao quý, càng nhiều hơn; cho nên tôi rất thích thú khi nghĩ rằng niềm vui ấy sẽ cứ được tiếp tục và gia tăng theo một hình thức nào đó (hình thức nào thì chính Đức Chúa Trời biết rõ, tôi sẵn sàng chờ xem) đời đời vô cùng. Thật ra, các Cơ Đốc nhân sẽ thừa hưởng được cái số phận ở các câu chuyện thần tiên đã hình dung bằng óc tưởng tượng: chúng ta (vâng, bạn và tôi, những tội nhân ngốc nghếch đã được cứu rỗi) đang sống và sống hạnh phúc, và nhờ lòng nhơn từ thương xót vô cùng của Đức Chúa Trời chúng ta sẽ sống hạnh phúc đời đời trong đời sau.
Chúng ta không thể hình trước cảnh sống thiên đàng, mà người khôn ngoan thì không hề cố gắng để hình dung. Trái lại, chúng ta sẽ sống với giáo lý về thiên đàng là nơi người được cứu chuộc sẽ tìm tất cả những gì lòng mình ao ước: niềm vui được ở với Chúa, niềm vui được sống chung với dân Ngài, và niềm vui vì tất cả thất vọng chán chường, những khổ nạn tai ương đều không còn nữa, và chúng ta sẽ được cung ứng mọi điều cần thiết. Những gì người ta đã nói với trẻ con: “Khi lên thiên đàng nếu các con muốn có kẹo bánh hay những loài thú quý hiếm trên đó đều có cả” không phải chỉ là nói cho qua chuyện, nhưng là một lời chứng cho chân lý trên thiên đàng không có gì chúng ta thấy cần hoặc ao ước, mà không được thỏa mãn. Tuy nhiên, chúng tôi không biết thật ra bạn sẽ muốn gì, ngoại trừ điều đầu tiên và là cuối cùng mà chúng ta muốn, là “được ở cùng Chúa luôn luôn” (ITe1Tx 4:17)
Thường thường hiện nay, vào những lúc gặp chuyện thật vui, chúng ta hay nói: “Ước gì giờ phút này chẳng bao giờ chấm dứt” - nhưng rồi nó cũng trôi qua. Tuy nhiên, trên thiên đàng thì khác. Nguyện các niềm vui thiên đàng sẽ thuộc về bạn và tôi.
NGHIÊN CƯứ THÊM KINH THÁNH
Nơi đến của chúng ta: KhKh 21:1-22:5
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao tác giả hoài nghi các hiện tượng thông tinh học?
2. Tại sao thiên đàng sẽ rất thích thú? Bạn thân bạn có trông mong được vào thiên đàng không? Tại sao có và tại sao không?
3. Những người ở thiên đàng sẽ làm gì?


PHÉP BÁP-TEM VÀ VIỆC ĂN NĂN QUY ĐẠO
“Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh mà làm phép Báp-tem cho họ” (Mat Mt 28:19).
“Phierơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn danh Đức Chúa Giê-Xu chịu phép Báp-tem, để được tha tội mình, rồi sẽ lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh” (Cong Cv 2:38).
”...đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Sa tan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi ta được sự tha tội cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Cong Cv 26:18).
“Đức Chúa Giê-Xu đáp rằng: Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết” (GiGa 13:8).
“Hay là anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều chịu phép báp tem trong Đức Chúa Giê-Xu Christ, tức là chịu phép Báp-tem trong sự chết Ngài sao? Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép Báp-tem trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống lại trong đời mới thể ấy” (RoRm 6:3-5).
“Ôi, lạy Đức Chúa Trời nhơn từ thương xót, xin khiến Ađam cũ trong những người này bị chôn đi, để con người mới được sống lại trong họ.
“Xin khiến mọi tình cảm xác thịt trong họ đều chết đi, để mọi sự thuộc về Thánh Linh có thể sống và tăng trưởng trong họ.
“Xin ban cho họ quyền năng và sức lực để chiến thắng khải hoàn trên ma quỉ, thế gian và xác thịt.
“Xin khiến họ, là những người đang hiện diện để dâng lên Ngài qua nghi lễ và chức vụ của chúng tôi, cũng được ban cho bởi đức hạnh thiên thượng và được ban thưởng đời đời do lòng nhơn từ thương xót của Ngài, ôi lạy Đức Chúa Trời đáng chúc tụng, là Đấng hằng sống và cai trị mọi sự, cai trị thế giới đời đời vô cùng. A men”
Nghi lễ phép Báp-tem, Sách Cầu Nguyện 1662.
TỰA
Khi người ta nhìn thấy hai sự vật chập nhau như một tấm ảnh bị chụp chồng, là điều gây khó chịu. Bạn nhìn thấy đến hai hình trong khi đáng lẽ bạn phải thấy chỉ có một hình mà thôi - va đó mới là chuyện rắc rối, bởi vì tấm hình này bị tấm kia làm cho biến dạng đi. Người nhìn thấy hai sự vậy chập nhau như vậy, sẽ chẳng thấy được vật gì rõ ràng cả, cho nên không dám lái xe. Người thợ chụp ảnh chụp hình , hình chồng lên nhau, sẽ làm hỏng cả hai tấm. Có một cái gì đó cũng rất giống như việc người ta nhìn thấy hai vật chập nhau, chụp hai tấm ảnh chồng lên nhau, khi chúng ta suy nghĩ về khởi điểm của đời sống Cơ Đốc nhân. Tâm trí chúng ta dường như bị phân đôi. Chúng ta chỉ nói về bước đầu tiên làm Cơ Đốc nhân ám chỉ việc mình được nhận vào Hội Thánh bằng phép Báp-tem, là việc nhiều người trong chúng ta đã trải qua lúc hãy còn bé, và chúng ta cũng nói đến việc trở thành Cơ Đốc nhân, ám chỉ việc tin nhận Đức Chúa Giê-Xu Christ làm Cứu Chúa mình lúc chúng ta ăn năn quy đạo (Conversion), như nhiều người chúng ta kinh nghiệm khi đã lớn tuổi. Nhưng khi chúng ta cố gắng liên kết hai điều ấy lại, hậu quả cũng giống như một tấm ảnh bị chụp chồng nhau. Bạn có thể nhìn thấy cả hai tấm ảnh, nhưng không tài nào tách rời từng tấm. Tấm ảnh này “cản đường” tấm kia, khiến người ta chẳng nhìn tấm nào ra tấm nào cả.
Do đâu có sự phân đôi tâm trí như vậy? Đó là di sản của hai thế kỷ trong đó có sự hiện diện của “ngoan đạo chủ nghĩa” (pietism) và của cả “Chủ nghĩa chống lại ngoan đạo chủ nghĩa” (opposition ta pietism). Ngoan đạo chủ nghĩa chú trọng vào việc ăn năn quy đạo, gia nhập các giáo phái (denominations) đã chết hoặc sắp chết, trong đó phép Báp-tem chỉ còn là một hình thức rỗng tuếch. Người chống lại ngoan đạo chủ nghĩa công kích “quy đạo chủ nghĩa” không hiểu được tính khách quan của ân điển trong sinh hoạt tập thể và các lễ nghi ban đầu của Hội Thánh. Nhằm bảo toàn tầm quan trọng của việc ăn năn quy đạo, một số người chủ trương làm phép Báp-tem cho trẻ con (paedo baptists) lý luận rằng tái sanh theo một ý nghĩa phép Báp-tem trung gian, khác hơn sự tái sanh người mới ăn năn quy đạo tiếp nhận được; còn một số người theo (giáo hội) Báptít khẳng định phép Báp-tem thật sự bằng Thánh Linh lúc ăn năn quy đạo) là lời chứng của người tín hữu để đáp lại với ân điển, đó không phải là dấu hiệu hay phương tiện của chính công việc do ân điển của Đức Chúa Trời. Thế là người ta đã phân rẽ điều Đức Chúa Trời kết hợp.
Những công trình nghiên cứu sau đây giãi bày quan điểm chúng ta không thể nào suy nghĩ đúng theo Kinh Thánh về vấn đề bắt đầu làm Cơ Đốc nhân mà không chú trọng vào chủ đề trở thành Cơ Đốc nhân, và ngược lại, . Bạn chỉ có thái độ đúng đắn đối với phép Báp-tem khi bạn chú trọng vào việc ăn năn quy đạo và phó thác để con đường đã chọn và trả giá làm Cơ Đốc nhân theo Cơ Đốc nhân đòi hỏi. Hai chủ đề về phép Báp-tem và việc ăn năn quy đạo không giống như dầm với nước, không thể hòa với nhau, đúng hơn là giống như giọng bổng và giọng trầm trong âm nhạc vậy. Bạn không thể nào đạt được cực điểm của cái này mà khỏi phải cần đến cả hai, mới có được sự hài hòa.

MẠNG LỊNH CỦA CHÚA
Xưa nay, phép Báp-tem luôn luôn là nghi lễ đầu tiên của Hội Thánh (đầu tiên theo nghĩa là để tiếp nhận và được gia nhập làm thành viên chính thức). Vâng, nhưng đúng ra phép Báp-tem là gì? Và tại sao nó lại quan trọng như vậy?
Phép Báp-tem là toàn bộ, hành động gồm có nước và lời nói. Bằng cách đổ nước hay dìm người trong nước, ứng việc chịu phép Báp-tem được đặt dưới nước trong khoảnh khắc, rồi được “đứa ra khỏi nước”. Từ ngữ Hi văn baptizo theo nghĩa đen, là “nhưng” và hành động làm phép Báp-tem gợi ý, vừa là “tẩy rửa”, vừa là “một khởi điểm mới”, những lời lẽ tiếp theo: “Nhơn danh Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh” tuyên bố mối liên hệ ứng viên chịu phép Báp-tem vừa được đòi hỏi, vừa phó thác cho Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
TẠI SAO PHẢI CHỊU PHÉP BÁP-TEM?
Các ngoại giáo có những nghi lễ tẩy rửa, và cho rằng chúng rất quan trọng để thay đổi tình tạng bên trong của con người. Nhưng Cơ Đốc giáo dạy rằng sự thay đổi bên trong được kể là có giá trị trước mặt Đức Chúa Trời là vấn đề của đức tin: không phải chỉ có niềm tin đúng mà thôi, nhưng là một tấm lòng sống động phó thác cho Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-Xu Christ. Sự thay đổi này không cho bất kỳ một nghi lễ nào tạo được, vì nó không hề thuộc bất luận một nghi lễ nào cả. Dầu sao các nghi lễ hình thức cũng có thể được miễn trừ, và chẳng có lệ nghi nào giúp ích gì được cho chúng ta, nếu lòng chúng ta chối bỏ hoặc thách thức D(ức Chúa Trời. Các sứ đồ làm phép Báp-tem cho các tín hữu và người nhà của họ, nhưng nhấn mạnh rằng điều cứu rỗi người ta là đức tin: “Hãy tin Đức Chúa Giê-Xu Christ, thì ngươi và cả nhà ngươi sẽ được cứu” (Cong Cv 16:14 đối chiếu câu Cong Cv 16:29-33).
Nhưng nếu bạn có thể tin Chúa và được cứu không cần đến phép Báp-tem, tại sao Hội Thánh đòi hỏi phép Báp-tem? Tại sao chẳng bỏ phứt nó đi, như các tín đồ Quakers hay Cứu thế quân đã làm?
Câu trả lời xuất hiện khi chúng ta nhớ lại các sự kiện căn bản liên hệ đến Chúa Giê-Xu, con người xuất thân từ xứ Galilê, vốn được các Cơ Đốc nhân tôn thờ như Đấng Cứu thế, Cứu Chúa và là Đức Chúa Trời mình.
ĐỨC CHÚA GIÊ-XU CHRIST.
Chúa Giê-Xu là ai? Hãy đọc các sách Phúc âm (Tin Lành) mà xem! Ba sách đầu giới thiệu Ngài là một người thật ra, là chính Đức Chúa Trời, nhà vua đã được hứa ban cho dòng dõi Davít (Mathiơ), là người đầy tớ thống khổ của lời tiên tri (Mác), và là nhà truyền bá Phúc âm tiên phong đầy dẫy Đức Thánh Linh mở đường lên thiên đàng (Luca), trong khi sách Giăng giới thiệu Ngài là Con một của Đức Chúa Trời, là Ngôi Lời đời đời, hiện được khiến trở nên người mà không hề bị mất đi thần tánh, để đem sự sống cho chúng ta bởi đức tin nơi Ngài. Yiếp theo đó, xin hãy đọc các thư tín, theo dõi Phaolô thảo luận dài dòng về địa vị làm con Đức Chúa Trời của Chúa Giê-Xu (CoCl 1:13,20), việc Ngài đã chịu chết để cứu chuộc tội nhơn (RoRm 3:21-26 5:6-11 IICo 2Cr 5:14-21), việc Ngài sống lại (ICo1Cr 15:1-20), sự trị vì của Ngài trong hiện tại (Phi Pl 2:5-11 ICo1Cr 15:24-28), và sự tái lâm chắc chắn của Ngài (ITe1Tx 4:13-5:11). Cũng xin theo dõi xem trước giả thư Hêbơrơ đã hòa lẫn vào nhau các luận đề về Chúa Giê-Xu là Con Đức Chúa Trời và là thầy tế lễ thượng phẩm, vừa là con sinh cũng vừa là thầy tế lễ dâng lên các của lễ để chuộc tội cho chúng ta. Sau đó, xin hãy đọc sách Công vụ các sứ đồ, trong đó địa vị làm Chúa và Cứu Chúa của Chúa Giê-Xu được phơi bày; xin hãy đọc sách Khải huyền, trình bày việc nghinh đón ngày chiến thắng khải hoàn đã gần kề của Ngài. Hãy gộp chung tất cả những điều đó, sẽ biết Chúa Giê-Xu là ai.
Còn đối với chúng ta thì sao? Ngài là Chúa, là Chủ và là Thầy của chúng ta, đã kêu gọi chúng ta phục vụ Đức Chúa Trời bằng cách vác thập tự giá theo Ngài; Ngài là Đấng Lãnh Đạo và là Bạn Thân của chúng ta, đang đi trước và đang nâng đỡ chúng ta ngay trên đết này, để cuối cùng, đưa chúng ta đến dự phần vào sự vinh hiển với Ngài trong đời hầu đến. Ngài là Chúa mà cũng là Đấng Yêu thương chúng ta, đòi hỏi chúng ta trước nhất phải giữ lòng tận trung với Ngài, và nếu chúng ta yêu mến Ngài, thì sẽ vâng giữ các điều răn, mạng lịnh của Ngài (GiGa 4:15).
ĐỂ LÀM ĐẸP LÒNG NGÀI
Bây giờ câu hỏi của chúng ta đã được trả lời rồi! Vì phép Báp-tem vốn nằm trong sổ các lịnh truyền của Chúa Giê-Xu. Ngài đã sai phái những người theo Ngài hãy đi dạy dỗ muôn dân, khiến họ trở thành môn đệ Ngài, hãy nhơn danh Ba Ngôi Đức Chúa Trời mà làm phép Báp-tem cho họ (Mat Mt 28:19). Cho nên một Hội Thánh không đòi hỏi phép Báp-tem, và một Cơ Đốc nhân chưa chịu phép Báp-tem mà không yêu cầu được nhận phép Báp-tem, sẽ là chuyện mâu thuẫn về danh nghĩa. Lý do gốc để thực hành phép Báp-tem. ấy là để làm đẹp lòng Đức Chúa Giê-Xu Christ, là Chúa chúng ta.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Cách thực hành phép Báp-tem (Cong Cv 8:1-39 10:30-48)
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN:
1. Từ ngữ Hi văn baptizo nói gì với chúng ta về ý nghĩa của phép Báp-tem?
2. Có một liên hệ nào giữa đức tin và cử hành nghi lễ Báp-tem?
3. Là một Cơ Đốc nhân, tại sao tôi phải chịu phép Báp-tem?

DẤU HIỆU NÓI LÊN ĐIỀU GÌ.
Có một quyển tiểu sử tự thuật bắt đầu bằng câu: “Tôi ra đờ...(ấy là tôi được nói cho biết vậy)”. Đó cũng là cách tôi phải nói về phép Báp-tem của mình, vì tôi được làm phép Báp-tem từ thuở còn bé. Tôi mong rằng trường hợp của bạn cũng vậy. Từ thế kỷ thứ tư cho đến nay (tôi không dám nói trước đó vì có rất nhiều ý kiến khác nhau) phần lớn các Cơ Đốc nhân đều được làm phép Báp-tem lúc hãy còn bé, do đó, họ cần phải hiểu rõ, biết chắc về ý nghĩa của phép Báp-tem. Nếu bạn nhận phép Báp-tem vào khoảng từ mười đến trước hai mươi tuổi như người mới ăn năn quy đạo hay như một tín đồ thuộc giáo hội Báptít, chắc bạn hãy còn nhớ cách rõ ràng. Nhưng chúng tôi chẳng còn nhớ được gì cả. Chúng tôi nhận phép Báp-tem từ bao giờ, điều ấy đã thuộc về quá khứ rồi. Và chúng tôi hiểu được ý nghĩa của nó trong mối liên quan với sinh hoạt hiện tại, không phải bằng cách nhớ lại một biến cố đã có lần xảy ra, nhưng xem nó như một dấu hiệu biết nói, một biểu tượng mang theo bức thông điệp; điều mà Augustine gọi là một lời thấy được đến từ Đức Chúa Trời.
BỨC THÔNG ĐIỆP
Người ta hiểu về phép Báp-tem như vậy từ bao giờ? Từ thời Phaolô, họ đã kiện phép Báp-tem để chứng minh cho các Cơ Đốc nhân thấy việc họ được kêu gọi. Trong RoRm 6:1-14, ông nói rằng vì chúng ta đã cũng bị chôn và cũng được sống lại với Đấng Christ trong phép Báp-tem, cho nên chúng ta không thể cứ tiếp tục phạm tội được. Trong CoCl 2:8-3:17, ông lý luận vì chúng ta đã cùng bị chôn và cùng sống lại với Đấng Christ trong phép Báp-tem, chúng ta đừng rơi trở vào thứ tôn giáo không có Đấng Christ, thuộc về đời nay, là thứ tôn giáo “tự nhiên”, với các luật lệ và sự mê tín dị đoan của nó, nhưng phải để cho đời sống đã sống lại cách siêu nhiên của Đấng Christ dược cơ hội bộc lộ trong chúng ta, để đập tan các thói xấu và bày tỏ đặc tính mới mẻ, giống như Đấng Christ vậy.
Phaolô muốn nói một người trở thành Cơ Đốc nhân, phải sống với ý thức mình được kết hợp chặt chẽ với Đấng Christ hằng sống, nương cậy nơi thập tự giá để hoàn toàn tiêu diệt tội lỗi, và ông nhìn thấy phép Báp-tem có đầy đủ ý nghĩa để nói lên mọi điều đó: cả công việc của Đức Chúa Trời là tái tạo, sanh lại chúng ta (việc chúng ta cũng bị đóng đinh vào thập tự giá và cũng được sống lại với Chúa Giê-Xu), lẫn công việc của chúng ta là ăn năn hối cải (lật sang những trang sách mới nói lên một đời sống mới).
Có người bối rối nghĩ rằng ở những chỗ khác, Phaolô vẫn nhấn mạnh chúng ta được xưng công bình bởi đức tin nơi Đấng Christ, và chỉ nhờ đức tin mà thôi (RoRm 3:27-30 GaGl 2:15 Eph Ep 2:8 Phi Pl 3:4-9), thế nhưng ở đây, ông lại ngụ ý bảo rằng nghi lễ Báp-tem cũng đem đến sự cứu rỗi. Nhưng nghĩ như vậy, là đã hiểu lầm ông, mấy điểm sau đây sẽ vạch rõ:
1. Phaolô viết cho những người mới ăn năn quy đạo thuộc thế hệ đầu tiên, theo tập tục Tân Ước, họ được làm phép Báp-tem ngay sau khi xưng nhận đức tin; như thế, tin Chúa và được làm phép Báp-tem, đối với họ, đã được kết hợp lại với nhau, như hai mặt của cùng một thực tại duy nhất là trở thành Cơ Đốc nhân.
2. Khi quả quyết về mối liên kết chặt chẽ đó, Phaolô nhắc cho họ nhớ điều họ tưởng đã xảy ra nhờ chịu phép Báp-tem, thật ra, đã xảy ra là nhờ có đức tin, chớ không phải là không bởi đức tin. “Anh em đã bởi phép Báp-tem ... thì cũng được sống lại với Ngài (Đấng Christ) bởi đức tin” (Côl :12). Chẳng kể đến sự mê tín của giới bình dân có khi hàng giáo phẩm đáng lẽ phải hiểu biết nhiều hơn lại khuyến khích thêm, không hề có truyền thống Cơ Đốc giáo nào - Tin Lành, Công giáo hay Chính thống giáo - cho rằng những người lấy đức tin chịu phép Báp-tem lại có thể được cứu nếu không có đức tin, hay bảo rằng người thật lòng tin Chúa có thể bị chết mất vì chưa chịu phép Báp-tem.
3. Với Phaolô và toàn thể các trước giả Tân Ước, mối liên hệ giữa tin và chịu phép Báp-tem rõ ràng cũng giống như việc được nối ngôi vua, với lễ đăng quang: qua phần nghi lễ công khai, cái thực tại đã có rồi là đặc quyền làm vua, được xác nhận, công bố, hành lễ linh đình, và được thực hiện về mặt hình thức. (Và theo cùng một ý nghĩa mà Elizabeth II được “tôn lên làm nữ hoàng vào ngày lễ đăng quang”, thì sách Giáo lý cầu nguyện cũng bảo rằng trong phép Báp-tem, đứa con của người tín hữu đã “ở trong Chúa” cùng với cha mẹ mình do được họ sanh ra, “được nhận làm một chi thể của Đấng Christ, là con cái Đức Chúa Trời, một người thừa kế nước thiên đàng").
4. Đã không có trường hợp nào Phaolô dẫn chứng phép Báp-tem như là bằng cớ của sự cứu rỗi (chỉ chịu phép Báp-tem mà thôi sẽ chẳng bao giờ được cứu hãy nghĩ về trường hợp của thuật sĩ Simôn trong Cong Cv 8:13-24). Như chúng ta đã biết, ông chỉ nói về phép Báp-tem như một dấu hiệu Đức Chúa Trời ban để dạy các tín hữu đã xưng mình là Cơ Đốc nhân phải sống theo mục đích họ đã được kêu gọi và chính họ đã tự nguyện dấn thân vào, và họ được đặc quyền, được ban cho khả năng để sống như vậy.
SỐNG NHỜ PHÉP BÁP-TEM
Lúc Martin Luther bị cám dỗ (như ông vẫn thường gặp) hoài nghi tình yêu thương của Đức Chúa Trời để sa vào nỗi thất vọng vì cho mình quá nông nổi chỉ hi vọng hão, ông đã giữ mình đứng vững nhờ tự nhủ: “Baptizatus sum (Tôi đã chịu phép Báp-tem rồi mà)”. Nhờ đó, ông phục hồi niềm tin chắc chắn rằng ân điển của Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông là thực hữu, và ông không nên ngã lòng mà không đáp ứng. Ông đả nhận diện bức thông điệp của phép Báp-tem. Còn chúng ta thì sao?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Phép Báp-tem mô tả sự cứu rỗi. CoCl 2:8-3:4 RoRm 6:1-14
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Phép Báp-tem chỉ cho Cơ Đốc nhân thấy gì về chính mình?
2. Đâu là mối liên hệ giữa phép Báp-tem và sự cứu rỗi?
3. Tại sao Martin Luther nhờ sự kiện ông đã chịu phép Báp-tem được lòng tin quyết phục hồi?

MỘT THÁNH LỄ CỦA PHÚC ÂM
Tôi thức dậy dường như sau một giấc ngủ dài. Tôi mở mắt ra, nhưng chung quanh hoàn toàn tối đen. Tôi không rõ mình đang ở đâu. Dường như chỉ có một mình tôi, và chung quanh tôi tất cả đều gồ nghề trơn trợt. Di chuyển sẽ là liều lĩnh vì tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Có lẽ có thể tới được một nơi nào đó; nhưng làm sao tôi chỉ đứng yên một chỗ thôi? Chẳng điều gì có ý nghĩa cả. Sự tuyệt vọng khiến tôi cảm thấy bệnh hoạn: nhỏ nhoi, yếu đuối và sợ sệt. Nhưng tôi nghĩ mình có nghe một tiếng gọi xa xa: “hãy đến, ở đây có ánh sáng”. Tôi không xác định được chắc chắn vị trí của tiếng gọi, nhưng tôi biết điều duy nhất mình phải làm là cố gắng mò mẫm, quờ quạng tiến về phía đó càng nhanh càng tốt.
TIẾNG NÓI TRONG BÓNG TỐI.
Ở thờ đại chúng ta nhiều người lớn ăn năn quy đạo đã được mô tả như là một hiện tượng và nhiều người hiện trở thành Cơ Đốc nhân đã bắt đầu cuộc hành hương của họ với một tâm trạng có thể được mô tả như lời lẽ trên đây. Chẳng có gì để ngạc nhiên cả! Vì khở điểm của Cơ Đốc giáo theo Kinh Thánh đúng ra chỉ là một tiếng gọi bóng tối, một tiếng gọi của Đức Chúa Trời với kẻ ngu dốt tối tăm, một lời mình không thật sự được nghe, tuy nội dung có thể rất quen thuộc, cho đến khi người ta biết rằng về phần thuộc linh mình ở trong bóng tối, cô đơn và lạc lõng sắp bị chết mất. Chính nhờ khơi dậy sự hiểu biết này mà Đức Thánh Linh giúp những kẻ đã thành nhơn nghe được điều Đức Chúa Trời đang phán.
“Lời của Đức Chúa Trời” là thành ngữ được dùng để mô tả cả Đức Chúa Giê-Xu Christ lẫn Kinh Thánh, nhưng “Lời Đức Chúa Trời” trong Tân Ước thường được dùng để chỉ về Phúc âm (nghĩa là Tin Lành, Tin mừng) về tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho kẻ bị chết mất. Đây cũng là lời chính Đức Chúa Trời đã phán với tình trạng tăm tối hỗn độn trong tâm thức chúng ta.
THOÁT KHỎI CẢNH TỐI TĂM.
Đức Chúa Trời phán gì trong Phúc âm? Ngài thông báo món quà tặng không lớn lao nhất trải mọi thời đại. Ngài đề nghị cứu vớt trọn vẹn (nghĩa là cứu rỗi) tất cả những ai từng chống cự không vâng theo những gì Ngài truyền dạy, đó là gốc rễ của mọi lầm lỗi, khốn khổ chán chường tuyệt vọng của chúng ta, và những gì mà Kinh Thánh gọi là tôi. Ngài hứa ban một đời sống mới, đời sống tha thứ, bình an, năng lực đạo đức và một mục đích sống vui mừng không hề dứt cho những ai bằng lòng hạ mình xuống, không cố công ra sức để đạt được, nhưng chỉ lấy lòng đơn sơ tiếp nhận.
Đức Chúa Trời đã ban điều đó như thế nào? Qua sự chết của Đấng Christ để làm một sinh tế dâng lên vì cớ tội lỗi. Làm sao để chúng ta nhận được sự sống ấy? Bằng cách đừng chống cự nữa, và tiếp nhận Cứu Chúa phục sinh làm Thầy, làm Chủ mình; sự sống được tìm thấy trong mối liên hệ đó. Thế thì có gì xảy ra? Chúng ta sẽ ngày càng chứng tỏ câu nói của Chúa Giê-Xu là thật: “Người nào theo ta, sẽ chẳng đi trong tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống” (Gia Gc 8:12).
VINH QUANG PHẢN CHIẾU.
Ngày nay, nhiều người xem phép Báp-tem như một nghi thức tôn giáo, chỉ có ý nghĩa để đặt tên cho đứa trẻ, và một số Cơ Đốc nhân xem đó như những ý niệm ghê sợ về ma thuật khiến người ta sống lại, nên cố ý xem thường phép Báp-tem; nhưng các giáo phụ đã cử hành phép Báp-tem như một điều hết sức kỳ diệu và quý báu. Khi họ đề cao phép Báp-tem như là khung cửa của sự sống, phải chăng họ đã đưa vào khái niệm của ngoại giáo, cho rằng các nghi lễ được thực hiện đúng đắn sẽ tạo ra quyền năng siêu nhiên? Không, tuy ngôn ngữ của họ vẫn thường được người ta hiểu như vậy. Nhưng họ đã thật sự hành lễ để tôn vinh ý nghĩa oai nghiêm của phép Báp-tem như bảo đảm cho người tín hữu sẽ được đổ đầy lời hứa cứu rỗi của Tin Lành quyền năng. Với họ, cũng như chúng ta phải hiểu phép Báp-tem là việc phản chiếu vinh quang của Phúc âm.
Xác nhận các lời hứa long trọng bằng những hiển hiện cụ thể - như việc ký tên và đóng dấu các tài liệu, các quà tặng, những cái bắt tay, cùng ăn uống với nhau - là việc làm hết sức tự nhiên trên thế giới, và nếu điều hứa hẹn gây phấn khởi thì việc nhận được hay giữ được những bằng chứng, sẽ vô cùng thích thú. Hãy thử hỏi cô dâu có cảm tưởng như thế nào lúc chú rể đeo cho câu chiếc nhẫn (vào ngón út bên tay trái) như là lời thề nguyện sẽ suốt đời chung thủy với cô! Hãy thử hỏi người phụ nữ có một gia đình hạnh phúc nghĩ gì khi chiếc nhẫn cưới của bà ta bị lột mất! Cũng vậy, phép Báp-tem diễn tả sự phó thác của một người yêu - là Đức Chúa Trời - bảo đảm cho hạnh phúc vô cùng vô tận, còn tiếp nhận và suy nghĩ về phép Báp-tem tức là đem niềm vui đến cho chúng ta.
Vì chính Cứu Chúa, muốn xác nhận lời hứa về sự cứu rỗi, đã thiết lập hai thánh lễ của Phúc âm, là phép Báp-tem và Tiệc thánh. Giáo hội Đông phương gọi đó là những “huyền nhiệm”, nghĩa là việc bày tỏ điều trước đây bị giấu kín (từ ngữ này được dùng để bắt đầu những buổi thờ phượng). Giáo hội Tây phương gọi đó là các thánh lễ, nghĩa là lời thề nguyện trọng thể (từ ngữ này được người lính La mã dùng chỉ lời thề tận trung). Cả hai đều là những thị cụ giúp người ta hiểu được biểu hiện nhiệt tình của lòng tin cậy, và cả hai đều cần được nhìn thấy sự vinh hiển thật.
Bây giờ, bạn đã hiểu chưa?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức Chúa Trời xác nhận các lời hứa của Ngài, giao ước được xác nhận bằng phép cắt bì - Sáng thế kỳ 17, hy vọng về vinh hiển, được xác nhận bằng lời thề - HeDt 6:11-20. Sự tha tội, được xác nhận bằng chén tiệc thánh - Mat Mt 26:20-29.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao cả Kinh Thánh và Đức Chúa Giê-Xu Christ đều được đề cập như “Lời Đức Chúa Trời?”
2. Tác giả ngụ ý nói gì khi bảo rằng “vinh quang của phép Báp-tem là...vinh quang của Tin Lành phản chiếu?”
3. Tại sao Giáo hội Đông phương gọi phép Báp-tem là “huyền nhiệm”, và giáo hội Tây phương lại gọi là “thánh lễ”? Cả hai từ ngữ ấy cho chúng ta biết gì về phép Báp-tem?

VIỆC ĂN NĂN QUY ĐẠO VÀ PHÉP BÁP-TEM
Từ “ăn năn quy đạo” trong Anh văn là convert, conversion, có nghĩa là “thay đổi”. Trong việc ăn năn quy đạo của Cơ Đốc nhân, có một sự thay đổi sinh động bên trong, khiến chúng ta đổi hướng đi, hay đúng hơn chúng ta được thay đổi, được xoay người để chuyển sang một hướng đi mới (vì việc ăn năn quy đạo do Đức Chúa Trời thực hiện trong chúng ta), để từ nay trở đi, chúng ta sẽ cùng sống với, sống trong, sống nhờ vào, và sống vì Đức Chúa Trời.
ĂN NĂN QUY ĐẠO LÀ GÌ?
Luca viết về vấn đề này trong Công vụ các Sứ đồ, lúc Đấng Christ phái Phaolô đến với người ngoại bang “đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua (quay sang, chuyển sang) sáng láng, từ quyền lực của quỉ Sa tan đến (quay sang, chuyển sang) Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi ta, được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Cong Cv 26:18, bản NEB dịch phần cuối cùng của câu này là: được một chỗ (địa vị) giữa vòng những người được thánh hóa (nên thánh, được khiến trở thành những người được Đức Chúa Trời vui nhận, chấp nhận). Phaolô kêu gọi người ngoại bang “ăn năn và (quay) trở lại cùng Đức Chúa Trời (Cong Cv 26:20), còn Đức Chúa Trời “mở cửa đức tin” cho họ (14:27), kết quả là “nhiều người ngoại trở về đạo” (15:3). Chúng ta thấy rõ việc ăn năn quy đạo trong những câu chuyện của chính Phaolô, tuy là một con người rất mực sùng đạo, nhưng không hề có được mối liên hệ sống động với Đức Chúa Trời, cho đến khi Đấng Christ bắt phục ông (9:1-30) của hoạn quan Êthiôbi (8:27-30) của Cọt nây là người kính sợ Đức Chúa Trời (10:22-48) và của người đề lao tại Philíp (16:27-34) và chúng ta còn có thể thêm vào các câu chuyện của người gái điếm vô danh, và của Xachê, kẻ thâu thuế bóc lột thiên hạ trong sách Tin Lành Luca (LuLc 7:36-50 19:1-10).
Như vậy, chúng ta thấy ăn năn quy đạo có nghĩa là phó thác cho Đức Chúa Trời để đáp lại lòng nhơn từ thương xót Đức Chúa Trời bày tỏ đối với chúng ta, gồm có sự ăn năn hối cải và đức tin. Trong Kinh Thánh, hai sự việc này trùng lắp nhau. Ăn năn không phải chỉ có nghĩa bị cắn rứt nên hối hận, tiếc rẻ, nhưng là việc hoàn toàn thay đổi tư tưởng, mục đích và hành động, khiến người ta từ bỏ con đường riêng không vâng lời, để tận hiến tán tụng phục vụ Đức Chúa Trời bằng đức tin. Đức tin không phải chỉ tin chân lý của Cơ Đốc giáo, mà còn là từ bỏ lòng tự tin và các hi vọng nơi con người, để tin cậy trọn vẹn vào Đấng Christ và thập tự giá của Ngài, để được tha tội, bình an và sự sống, để từ đó trở đi, sẽ sống cho Đức Chúa Trời yêu thương bằng sự vâng lời cảm tạ với tấm lòng ăn năn thống hối.
Tuy trước khi người ta ăn năn quy đạo, Đức Chúa Trời có thể hành động trong đời sống họ thật rõ ràng, khiến họ tìm kiếm Ngài như Phaolô và Augustine, và đặt vào tâm trí con người điều Wesley gọi là “đức tin của người đầy tớ”, chỉ khi nào con người ăn năn quy đạo mới trở thành Cơ Đốc nhân theo đúng nghĩa của Kinh Thánh để thực hiện “đức tin của kẻ làm con”. Về phương diện thuộc linh, trước khi ăn năn quy đạo, mọi sự dù có diễn biến tốt đẹp đến đâu, cũng chỉ mới là ánh sáng lờ mờ mà thôi.
Có nhiều người phủ nhận việc ăn năn quy đạo, xem đó như chuyện quái dị xa lạ đối với Phúc âm, nhưng nó thuộc về hoạt động chính yếu của kinh nghiệm Cơ Đốc nhân ở khắp nơi. Nó không nhất thiết phải là một xúc động đột ngột đầy kịch tính, cũng không phải người ta cần ý thức đầy đủ tất cả những gì đã xảy ra (tuy quy đạo có ý thức thường chứng tỏ đầy phước hạnh). Tuy nhiên, điều tối quan rộng là các dấu hiệu của sự ăn năn quy đạo chúng ta phải có: đức tin và sự ăn năn hối cải như những nguyên tắc trong đời sống hằng ngày; nếu không, chúng ta sẽ không thể được xem là Cơ Đốc nhân, cho dù chúng ta có khoe khoang là mình kinh nghiệm bất cứ đều nào đi nữa. Như vậy, cách sống bày tỏ sự ăn năn quy đạo có ý nghĩa nhiều hơn là kinh nghiệm ăn năn quy đạo.
CHỖ PHÉP BÁP-TEM CAN DỰ VÀO.
Chắc bạn nói: Đúng lắm, nhưng nó có can hệ gì với phép Báp-tem? Dĩ nhiên bạn có thể ăn năn quy đạo mà chẳng biết gì về phép Báp-tem cả, cũng y như bạn có thể nhận phép Báp-tem mà chẳng biết gì cả về việc ăn năn quy đạo. Tuy nhiên, trong mọi việc đó, có sự liên hệ gồm ba phương diện:
Thứ nhất, phép Báp-tem đòi hỏi người ta phải ăn năn quy đạo trước. Chẳng những nó chỉ có nghĩa là sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời qua sự chết và sống lại của Chúa Giê-Xu phải vận hành trong chúng ta, mà chúng ta còn phải nhờ vào đó để bước vào một đời sống mới, nhờ “sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Đức Chúa Giê-Xu Christ là Cứu Chúa chúng ta” (Cong Cv 20:21), nghĩa là nhờ sự ăn năn quy đạo. Sự ăn năn quy đạo, đối với những người lớn được nhận phép Báp-tem phải xưng nhận cách đáng tin, còn phép Báp-tem cho trẻ con nhằm phó thác, nhằm giúp đỡ kẻ chịu phép Báp-tem đến chỗ ăn năn quy đạo.
Thứ hai, phép Báp-tem tác tạo, hình thành việc ăn năn quy đạo. Theo ý nghĩa biểu tượng của nghi lễ ấy, chúng ta biết được trở thành Cơ Đốc nhân có nghĩa là chấp nhận cùng chết với Đấng Christ (hoàn toàn phân rẽ với thế gian), được Đấng Christ thanh tẩy (tội lỗi quá khứ được tha trọn vẹn) và đồng nhất hóa, hiệp làm một với sự sống phục sinh của Đấng Christ (hiến dâng trọn vẹn trong tương lai); còn sự ăn năn quy đạo chân chính phải thật sự đáp ứng với Đức Chúa Trời ở ba điểm trên.
Thứ ba, phép Báp-tem trắc nhiệm việc ăn năn quy đạo. Ăn năn quy đạo (theo đạo) theo nghĩa tâm lý học là tin theo tôn giáo, có thể ngoài Cơ Đốc giáo; điều giúp người ta nhận diện được là kinh nghiệm ăn năn quy đạo của một Cơ Đốc nhân, ấy là việc tích cực hướng về những tiếng gọi theo ba phương diện kể trên của phép Báp-tem.
Tôi tự hỏi: phép Báp-tem của bạn có nói về sự phó thác với tư cách Cơ Đốc nhân, hay sự ăn năn quy đạo, mà bạn xưng nhận đó? Bạn cần phải khôn ngoan tự xét lại xem.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Sự ăn năn quy đạo chân chính: ITe1Tx 1:1-10, 2:9-16
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Ai làm công việc khiến một Cơ Đốc nhân ăn năn quy đạo, và công việc đó là gì?
2. “Chỉ cần ăn năn quy đạo, là người ta đã trở thành Cơ Đốc nhân theo đầy đủ ý nghĩa của Kinh Thánh” Tại sao vậy?
3. Tại sao nếp sống của người ăn năn quy đạo vốn có ý nghĩa hơn là kinh nghiệm ăn năn quy đạo?

CHỊU PHÉP BÁP-TEM NHÂN DANH CHÚA GIÊ-XU
Lúc Phierơ truyền giảng vào ngày lễ Ngũ tuần, ông bảo với dân Do thái rằng người mà họ vừa giết chết, giờ đây đã sống lại và đang cầm quyền cai trị, nhiều người đã sửng sốt và hỏi bây giờ họ phải làm gì? Phierơ nói: “Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Giê-Xu chịu phép Báp-tem để được tha tội mình” (Cong Cv 2:38). Thật là dễ bỏ qua câu nói đầy sức mạnh này. Phierơ không đề nghị biểu hiện nào có tính cách hình thức tỏ ra hối tiếc việc họ đã đóng đinh Chúa Giê-Xu vào thập tự giáp, nhưng dạy họ phải hoàn toàn từ bỏ lối sống theo ý riêng để hoàn toàn đầu phục quyền cai trị của Chúa Phục sinh. Vì danh Chúa Giê-Xu đã mang, và chịu phép Báp-tem đối với những người đến tuổi hiểu biết, là dấu hiệu lời chứng ấy đã được công nhận.
DANH (TÊN) VÀ SỰ ĐÒI HỎI.
Phaolô vạch rõ điều này, khi ông bảo rằng lúc xuất Ai cập, dân Ysơraên “chịu Môise làm phép Báp-tem cho - bản NEB dịch câu này là” “chịu phép Báp-tem bằng cách thông công với Môise”, nghĩa là vâng lời và di theo vị lãnh tụ mà Đức Chúa Trời đã phái đến với họ bất cứ nơi nào trụ mây dẫn họ đi, ngang qua biển đỏ bị rẻ nước ra” (ICo1Cr 10:1 và tt) Phaolô còn vạch ra điểm ấy còn rõ ràng hơn nữa, khi ông nhắc nhở những người được ông dẫn dắt để ăn năn quy đạo họ không cần phải trung thành với ông hay chiến đấu vì danh dự của chính ông, vì họ không hề “chịu phép Báp-tem nhân danh Phaolô” (ICo1Cr 1:13)theo Phaolô phép Báp-tem, ngoài những điều khác ra, còn có nghĩa là một nghi lễ đăng ký để công khai tuyên bố một thề nguyện trung thành suốt đời “làm người lính và đầy tớ tận rung cho Đấng Christ”
Lời thề nguyện này bao hàm những gì? Ý niệm trong Kinh Thánh soi sáng rõ rệt nhất cho điểm này, là hình ảnh của chính Chúa Giê-Xu trong Giăng chương 10, với tư cách một người chăn chiên, còn những người theo Ngài là bầy chiên của Ngài. Chúa Giê-Xu bảo người chăn chiên tốt thì đi trước, tìm các đồng cả tươi tốt để tha chiên, và bảo vệ cho chiên của mình (câu 4,9,11 và tt), còn tất cả nhiệm vụ của con chiên chỉ là dân mình đến (câu 3 và tt).
Có một chủ đề xuất hiện nhiều lần trong Tân Ước mô tả Chúa Giê-Xu là nhà tiền phong mở đường cho chúng ta đi tới vinh quang - tức là việc người chăn dẫn bầy chiên của mình trở về ràng.
Còn một cách cũng rất cổ điển nữa là xem chức vụ của Chúa Giê-Xu trong các điều kiện của ba chức vụ cần được xức dầu của Cựu Ước: nhà tiên tri, thầy tế lễ, và vua. Là nhà tiên tri, lời truyền dạy của Ngài về Đức Chúa Trời hoàn toàn từ Đức Chúa Trời đến, Chúa Giê-Xu là người chăn tuyệt hảo trong việc dìu dắt, con đường của sự sống (muốn biết Chúa Giê-Xu truyền dạy gì, xin đọc các sách Phúc âm). Với tư cách thầy tế lễ, đứng giữa chúng ta với Đức Chúa Trời để bảo đảm việc chúng ta được hưởng niềm vui là được thông công với Đức Chúa Trời. hi sinh mạng sống vì tội lỗi chúng ta để giờ đây ngự nơi thiên đàng Ngài vẫn giúp đỡ chúng ta, Chúa Giê-Xu là người chăn tuyệt hảo đã cứu được chiên mình với giá phải trả là chính mạng sống mình (GiGa 10:11,15,17 và tt) còn về chức vụ thầy tế lễ của Chúa Giê-Xu, xin đọc thư Hêbơrơ). Rồi ở cương vị là vua, là Chúa của mọi hoàn cảnh, của lương tâm và cách ăn ở cư xử của chúng ta, Chúa Giê-Xu là người chăn tuyệt hảo giữ được chiên mình khỏi mọi điều ác. (Về nước của Chúa Giê-Xu, xin đọc sách Khải huyền).
Vậy tất cả những ai đã nhân danh Chúa Giê-Xu chịu phép Báp-tem, đều phải trở thành người theo Ngài. Người ấy phải chăm chỉ lắng nghe Chúa Giê-Xu như sứ giả của Đức Chúa Trời - “Này là Con yêu dấu của ta...hãy nghe người” (Mat Mt 17:5). người ấy phải tin cậy Chúa Giê-Xu, là Đấng Trung Bảo của Đức Chúa Trời - ” Hãy đến cùng ta...ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Mat Mt 11:28). Và người ấy phải vâng lời Chúa Giê-Xu như chủ mình - “Sao các ngươi gọi ta Chúa, Chúa, mà không làm theo đdều đã chịu phép Báp-tem; chúng ta có sống đúng như vậy không?
MỘT XÃ HỘI MỚI.
Như thế vẫn chưa đủ, vẫn chưa phải là hết. Khi công nhận Chúa Giê-Xu là người chăn mình, là chúng ta khẳng định rằng mình tự đồng nhất hóa với bầy chiên của Ngài - cộng đồng mà “dân Chúa”, “Hội Thánh Đấng Christ” là tên gọi đầy đủ, trọn vẹn. Họ là những người đồng hương đồng quốc với chúng ta, vì “chúng ta là công dân trên trời” (Phi Pl 3:20); họ là anh em ta trong gia đình Đức Chúa Trời, vì “các ngươi hết thảy đều là anh em” (Mat Mt 23:8); họ đều là chi thể như chúng ta trong cơ thể phục vụ, là thân thể Đấng Christ, vì “chúng ta làm chi thể cho nhau” (Eph Ep 4:25) và “trong Đức Chúa Giê-Xu anh em thảy đều làm một” (GaGl 3:28).
Vậy phép Báp-tem có ý nói đến hơn nữa. Luật lệ dành cho tất cả những người chịu phép Báp-tem là phải dấn thân vào “đời sống của thể xác” là đoàn kết, ưu ái và phục vụ lẫn nhau (về vấn đề này xem RoRm 12:4 ICo1Cr 12:4 Eph Ep 4:7-16 IPhi 1Pr 4:10 và tt). Trong Hội Thánh, chủ trương đứng riêng ra, chẳng kết thân với ai cả, trốn tránh trách nhiệm v.v... thường bị kết án là phủ nhận ý nghĩa của tiệc thánh; chúng ta cần thấy đó cũng là phủ nhận ý nghĩa phép Báp-tem nữa, và ông cần phải bài trừ y như vậy. Bây giờ chúng ta đã rõ ràng chưa? Chúng ta có cho rằng bằng tình yêu thương chủ động, tích cực đối với các Cơ Đốc nhân bạn, xem đó như một vấn đề của lương tâm, thì chúng ta mới chứng tỏ mình hiểu rõ ý nghĩa của phép Báp-tem hay không?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Những gì Chúa Giê-Xu đòi hỏi các môn đệ Ngài: LuLc 9:57-62 14:25-33 GiGa 13:1-17
NHỮNG CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Theo ý nghĩa nào, phép Báp-tem chấm dứt một lối sống để bắt đầu một nếp sống khác?
2. Tại sao tác giả gọi phép Báp-tem là một nghi lễ đăng ký, “đầu quân”?
3. Phép Báp-tem có liên hệ gì với “đời sống của thể xác”.

TẨY RỬA
Khi bạn nhìn kỹ hai thánh lễ theo Phúc âm mà Chúa Giê-Xu để lại cho chúng ta, bạn nhận ra rằng chúng chính là hai mảnh nhỏ của sinh hoạt thông thường trong nhà: một bữa ăn, và việc tẩy rửa trước bữa ăn. Chúa Giê-Xu chọn hai biến cố xảy ra ngay đó để làm dấu hiệu cho ân điển cứu rỗi, vạch rõ cho chúng ta thấy rằng, nếu không có chuyện tẩy rửa và ăn uống, sức khỏe thuộc thể chúng ta sẽ tàn tạ, cũng vậy, nếu không có hai thánh lễ tương ứng theo Phúc âm đó, người ta cũng không thể tìm đâu cho ra sức khỏe thuộc linh.
TẨY SẠCH TỘI LỖI.
Thánh lễ tương ứng với sự tẩy rửa theo Phúc âm là gì? Là được tẩy sạch khỏi mọi lầm lạc, ô uế và tội lỗi. Thiếu sự “tẩy rửa của thiên đàng” đó, Đấng Tạo Hóa thánh khiết của chúng ta sẽ không vui nhận chúng ta. Như bậc làm cha mẹ không để cho con cái mình ngồi vào bàn ăn nếu chưa rửa tay, Đức Chúa Trời cũng không cho phép chúng ta ngồi vào bàn ăn của Ngài - nghĩa là được thông công với Ngài, trước khi những điều nhơ nhớp của chúng ta chưa được tẩy xóa.
Chúng ta phải biết rằng sự kiêu căng, ích kỷ, bần tiện và chỉ cần hơi lệch lạc một chút để chúng ta sống thiếu yêu thương và khó thương là một điều gì bất khiết đối với Đức Chúa Trời, một điều gì đó xúc phạm, khiến Ngài rất ghê tởm, và Ngài phải che mặt lại khi chúng ta gặp điều nhơ nhớp tại nơi mà mình có quyền mong đợi sự sạch sẽ. Nếu ở một hiệu ăn, bạn được người ta dọn dĩa thức ăn mà rõ ràng cái dĩa ấy đã không được rửa sạch, chắc chắn không nhận nó. Cũng vậy, theo Kinh Thánh, thái độ của Đấng Tạo Hóa đối với những kẻ bị hội chứng bất pháp, chống lại Đức Chúa Trời gọi là tội lỗi cai trị, áp đảo, là thái độ chối bỏ, là “cơn thạnh nộ” phải được bày tỏ ra trong sự “đoán phạt công chính” khi ngày đến.
Phaolô nói: “Cơn giận của Đức Chúa trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người...” Đức Chúa Trời tỏ ra (lên án) những người phạm các tội dường ấy là đáng chết”. “Khi sẽ hiện ra sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời...(Ngài) sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo công việc họ làm...Sự hoạn nạn khốn khó giáng cho mọi người làm ác” (RoRm 1:18,32 2:5-9).
Điều đầu tiên khiến Chúa Giê-Xu dạy tất cả các môn đệ Ngài phải chịu phép Báp-tem (Mat Mt 28:19) cho chúng ta thấy rằng mọi người chúng ta đều cần “sự tẩy rửa của thiên đàng”. Phép Báp-tem là nhân chứng được dựng lên để chống lại những ai muốn xem thường cái nhu cầu đó bằng cách cãi rằng Đức Chúa Trời đâu có lưu ý tới tội lỗi và sự ô uế của chúng ta làm chi, hay cơn thạnh nộ của Ngài đâu “có thật”. Nhưng phép Báp-tem còn vạch rõ cho chúng ta thấy rằng “sự tẩy rửa của thiên đàng” có thể trở thành sự thật cho tất cả mọi người.
HUYẾT, ĐỨC TIN, VÀ PHÉP BÁP-TEM
Sự tẩy rửa này xảy ra chỉ trong khoảnh khắc. Nó gồm việc thay thế lầm lỗi bằng sự tha thứ và việc phá hủy quyền cai trị của tội lỗi - nghĩa là việc bạn bị bắt làm nô lệ cho các động lực thúc đẩy mà nếu chúng ta đề cao và dung dưỡng bản ngã, sẽ làm vấy bẩn, làm ô uế cả cuộc đời chúng ta. Điều chữa lành, giải phóng được ách nô lệ đó, là sự đổi mới từ bên trong, nghĩa là sự tái sanh sau đó.
Sự tẩy rửa đó xảy ra như thế nào? “Huyết Đức Chúa Giê-Xu Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta” (IGi1Ga 1:7). Toplady đã cầu nguyện rất phải lẽ, xin sự chết làm sinh tế của Chúa Giê-Xu sẽ “chữa trị tội lỗi đến hai lần, xin tẩy sạch tội khỏi sự lầm lỗi và quyền năng của nó” Huyết Đấng Christ (nghĩa là quyền năng của sự chết Ngài) sẽ “làm sạch lương tâm anh em khỏi công việc chết (nghĩa là phạm tội, do đó phải chết) đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng sống” (HeDt 9:14 vì quyền cai trị của tội lỗi trên anh em đã bị đập tan rồi). Chúa Giê-Xu đã phán với Phierơ: “Nếu ta không rửa cho người” - Ngài nói về việc tẩy rửa bên trong, tuy Phierơ đã không lãnh hội được cách ám chỉ ấy - “thì ngươi chẳng có phần chi với ta hết” (GiGa 13:8, bản NEB dịch phần cuối của câu này là “thì ngươi không được thông công với ta").
Chúng ta được tẩy rửa như vậy khi nào? Lúc chúng ta tin, nghĩa là tự phó dâng đời mình cho Đấng Christ. vậy phép Báp-tem có liên hệ gì với việc đó? Ở ba điểm. Thứ nhất, phép Báp-tem vẽ nó ra, bằng biểu tượng cho chúng ta học tập, nhưng chúng ta đã thấy. Thứ hai, phép Báp-tem hứa điều đó bằng việc thấy được, công bố rằng ai có đức tin nơi Đấng Christ thì nhận được điều đó. Thứ ba, phép Báp-tem trình bày điều đó về phương diện hình thức, do đó, bảo đảm với người tin rằng nó đã thật sự xảy ra, có thật, như việc phát bằng cấp cho người sinh viên tốt nghiệp bảo đảm với người ấy rằng mình đã thật sự tốt nghiệp vậy. Chính trong những điều kiện đó: vẽ ra, hứa, và trình bày, mà chúng ta phải hiểu việc Phierơ đã kêu gọi người Do thái hãy chịu phép Báp-tem “để được tha tội mình” (Cong Cv 2:38) và sau đó, ông định nghĩa phép Báp-tem là ”...chẳng phải sự làm sạch ô uế của thân thể, nhưng một sự kêu gọi lương tâm tốt với Đức Chúa Trời” (IPhi 1Pr 3:21), và Anania thúc giục Phaolô “Hãy chờ dậy, cầu khẩn danh Chúa (Giê-Xu) mà chịu phép Báp-tem và làm sạch tội lỗi mình đi” (Cong Cv 22:16).
Phaolô bảo người Côrinhtô “Anh em (đã) được rửa sạch” (ICo1Cr 6:11). Bạn đã được rửa sạch như họ chưa? Cũng như tôi, bạn cần được rửa sạch.
NGHIÊN CỨU THÊM KINHT HÁNH
Được tẩy sạch khỏi sự ô uế của tội lỗi được mô tả trong IIVua 2V 5:1-14 được hứa trong Exe Ed 36:22-32 được thực hiện trong Tit Tt 2:11-3:8.
NHỮNG CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tác giả mô tả tội lỗi như thế nào? Điều này có nghĩa gì?
2. Tại sao chúng ta cần nhiều điều hơn là chỉ được tha thứ mà thôi?
3. Tại sao nếu không được tẩy sạch về phần thuộc linh, chúng ta sẽ không thể thông công với Đấng Christ?
HIỆP MỘT VỚI ĐẤNG CHRIST
Phải chăng trong Cơ Đốc giáo có một điều gì đó vượt hẳn việc chỉ làm điều đạo đức và đóng góp, hậu thuẫn cho Hội Thánh? Có người nghĩ là không, nhưng thật ra là có. Cơ Đốc giáo là một đời sống mới, gồm có những mối liên hệ mới với Đức Chúa Trời, loài người và vạn vật; và tất cả những điều đó đều phát xuất từ cùng một nguồn mạch: mối liên hệ có một không hai giữa Cơ Đốc nhân với thầy và là Chủ mình, là Đức Chúa Giê-Xu Christ.
Tân Ước đã làm sáng tỏ điều này, nhưng đề cập mối liên hệ đó bằng lối nói lạ tai và khó có thể hiểu đích xác. Sự hiệp một với Đấng Christ cũng được khẳng định bằng những từ ngữ nghe ra có vẻ như quá mạnh, khó có thể trở thành sự thật. Như Phaolô nói: “Đấng Christ là sự sống của anh em” (CoCl 3:4 và “Tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi” (GaGl 2:20); ông cũng nói Cơ Đốc nhân làm và kinh nghiệm mọi sự hoàn toàn ở trong Đấng Christ, và những người đã chịu phép Báp-tem được ở trong Đấng Christ (GaGl 3:27). Cho nên, Chúa Giê-Xu cũng nói: “Hãy cứ ở trong ta, thì ta ở trong các ngươi”, “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh” (GiGa 15:4 và tt). Mối liên hệ đó có thể là gì, tại sao có những câu như thế?
SỰ HIỆP MỘT SONG PHƯƠNG
Mối liên hệ này gồm hai phương diện. Xin hãy tách rời chúng ra.
Thứ nhất, đó là một mối liên hệ với thân vị (person) của Chúa Giê-Xu - một mối liên hệ thầy trò. Chúa Giê-Xu của các sách Phúc âm hiện nay vẫn sống, Ngài đã phục sinh và thực hữu. Về mọi phương diện đặc tính, thái độ và các mối quan tâm, Ngài vẫn y nguyên như lúc Ngài tại thế: “Đức Chúa Giê-Xu hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời, không hề thay đổi” (HeDt 13:8). Và Ngài kêu gọi chúng ta hãy làm đúng như những gì Ngài từng gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài làm: tôn trọng và yêu mến Ngài, học hỏi nơi Ngài, trung tín vâng lời Ngài từ chối mình đi để tự đồng nhất hóa với ý chỉ Ngài về mọi phương diện, để Ngài thấy chúng ta đã phản ảnh chính Ngài. Đây là góc cạnh dấn thân mới mẻ khi chúng ta kết hợp với Chúa Giê-Xu.
Thứ hai, mối liên hệ này còn là sự kết hợp mà có khi các thần học gia gọi là “biến cố Đấng Christ”. Cách gọi thông thường của chúng ta là sự nhập thể (sự thành nhục thể, Đức Chúa Trời xuống làm người). Chúng ta nên hiểu góc cạnh này của mối liên hệ ấy như sau:
Con của Đức Chúa Trời đời đời đã trở thành Đức Chúa Giê-Xu Christ bằng cách nhập thể; muốn cất tội lỗi khỏi chúng ta Ngài đã phải trải sự chết bằng việc chịu đóng đinh vào thập tự giá; thân thể Ngài đã sống lại đời đời trong sự phục sinh; và bằng việc thăng thiên, Ngài trở lại thiên đàng cách vẻ vang, đầy vinh hiển. Đó là biến cố Đấng Christ. Nó thật sự xảy ra trong lịch sử, tại xứ Palestine, 2.000 năm trước đây. Tuy nhiên, cũng thật sự, nó vốn siêu vượt trên lịch sử, không hề bị không gian và thời gian giới hạn như nhiều biến cố khác bị hạn chế; nó có thể đụng đến và bắt phục bất kỳ ai, bất luận lúc nào, nơi nào. Đặt đức tin vào Chúa Giê-Xu là lúc có sự tác động, thực sự nói cho cùng, mỗi một tín hữu đều thật sự chết rồi sống lại, và bây giờ sống và đồng trị với Chúa, qua trung gian, Chúa Giê-Xu. (Xin lưu ý là khi thành ngữ “trong Đấng Christ” được sử dụng, “trong” là cách nói tắt, nói ngắn gọn của “với”, và “qua trung gian”, là “cùng với"). Đây là phương diện mới mẻ của mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa Giê-Xu.
Chúng ta nhìn vào hai khía cạnh trên cách riêng rẽ để có thể nhìn rõ từng khía cạnh mộ, như người học dương cầm tập đánh một bản nhạc, trước hết phải tập đàn phần dành cho bàn tay phải, rồi sau đó là phần dành cho bàn tay trái. Nhưng vì cả hai chuỗi nốt nhạc ấy phải được đánh lên đồng thờ mới tạo được những âm thanh thích hợp, cũng vậy về phần tâm linh chúng ta phải kết hợp cả hai khía cạnh vào mối liên hệ giữa mình với Chúa Giê-Xu, nếu muốn xác nhận điều đó đúng theo Kinh Thánh. Càch diễn tả việc đó, ấy là trong Chúa Giê-Xu chúng ta lấy đức tin đến với Ngài, Đấng có tất cả quyền năng của biến cố Đấng Christ, và để cứu rỗi chúng ta, chẳng những Ngài thu xếp để chúng ta được phục hòa với Đức Chúa Trời, mà còn khiến chúng ta “hiệp một”, với chính sự chết, sống lại và trị vì với Ngài nữa. Như vậy, chúng ta được sống trong mối thông công vui vẻ với Ngài, vì biết rằng chúng ta đã được xưng công bình nhờ sự chết Ngài, do đó, được giải thoát khỏi bạo quyền của tội lỗi để được nếm trước thiên đàng ngay trên đất này nhờ quyền năng biến hóa bên trong chúng ta do sự chết và sống lại của Ngài ban cho chúng ta.
Đây là một câu phát biểu quá vắn tắt, một chân lý bao quát. Các phần trình bày trong Kinh Thánh về vấn đề này, trong mấy chương 6-8 thư Rôma và chương 3 thư Côlôse. Cả hai đều cần được nghiên cứu.
PHÉP BÁP-TEM VÀ SỰ HIỆP MỘT
Phép Báp-tem có liên hệ trực tiếp với tất cả những gì vừa được đề cập, vì khi đưa người chịu phép Báp-tem vào trong nước, phép Báp-tem chẳng những chỉ có nghĩa là rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn có nghĩa là người ấy đã cùng chết và sống lại với Đấng Christ, khiến người ấy được giải phóng khỏi quyền cai trị của tội lỗi. Phaolô viết: “Hay là anh em chẳng biết (đã quên) rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép Báp-tem trong Đức Chúa Giê-Xu Christ, tức là chịu phép Báp-tem trong sự chết Ngài sao? Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép Báp-tem trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy” (RoRm 6:3 và tt).
Nếu có ai muốn biết bản chất thật và “trái tim” của Cơ Đốc giáo, người ấy hãy nhìn vào phép Báp-tem; vì phép Báp-tem công bố đồng thời cả hai phương diện của mối liên hệ với Chúa hằng sống Đấng khiến mọi sự đều trở nên mới.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Sống trong Đức Chúa Con: GiGa 6:35-59 15:1-11 IICo 2Cr 5:14-21 GaGl 3:23-29.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Phải chăng nói đến Cơ Đốc giáo trước hết là vấn đề đạo đức và mối quan hệ? Hãy giải thích câu trả lời của bạn.
1. Sự kiện Chúa Giê-Xu không hề thay đổi nói gì với chúng ta về bổn phận người làm môn đệ Ngài?
3. Bảo rằng biến cố Đấng Christ có tính cách siêu lịch sử, là ngụ ý gì?
Sự kiện ấy ý nghĩa gì đối với chính bạn?
PHÉP BÁP-TEM VÀ ĐỨC THÁNH LINH
Trước khi Chúa Giê-Xu thi hành chức vụ công khai, Giăng Báptít đã so sánh phép Báp-tem bằng nước của ông, với phép Báp-tem bằng Đức Thánh Linh mà Đấng Hầu Đến sẽ thực hiện như sau: “Ta làm phép Báp-tem cho các ngươi bằng nước; nhưng Đấng đến sau ta sẽ làm phép Báp-tem cho các ngươi bằng Đức Thánh Linh” (Mac Mc 1:8). Trước khi thăng thiên và nhìn về ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giê-Xu cũng so sánh như vậy: “Giăng đã làm phép Báp-tem bằng nước, nhưng trong ít ngày, các ngươi sẽ chịu phép Báp-tem bằng Đức Thánh Linh” (Cong Cv 1:5)
Vấn đề không phải là phép Báp-tem bằng Đức Thánh Linh và phép Báp-tem bằng nước chống đối xung khắc nhau, cũng không phải phép Báp-tem bằng Đức Thánh Linh khiến phép Báp-tem bằng nước trở thành không cần thiết nữa, nhưng vì phép Báp-tem của Giăng thuộc về thời Cựu Ước đã qua rồi, trong khi việc Đấng Christ ban Thánh Linh xuống (xem Cong Cv 2:33) sẽ đưa người tín hữu bước vào sinh hoạt của giao ước mới, như đã được tiên báo trong Gie Gr 31:31 và tt, điều đã được Chúa Giê-Xu công bố khi ban Tiệc Thánh (ICo1Cr 11:25) và được trình bày chi tiết trong HeDt 8:8-10:25.
ÂN TỨ CỦA GIAO ƯỚC MỚI
Sinh hoạt theo giao ước mới là gì? Đó là nhận thức việc thông công với Chúa Giê-Xu trong sự vinh hiển Ngài, với Cha Ngài mà cũng là Cha chúng ta qua chính Ngài làm trung gian, cộng thêm sự nhận thức mình được cùng chia xẻ những ơn phước do sự chết chuộc tội của Ngài (được tha tội, được tiếp nhận, được địa vị làm con thừa nhận) và do sự sống phục sinh của Ngài (được phù trợ trong hiện tại, được hi vọng về đời sau). Ban cho sự sống này, là chức vụ đặc biệt hậu Ngũ tuần của Đức Thánh Linh.
Chính vì lý do ấy trong GiGa 7:39, sứ đồ Giăng ghi nhận rằng Đức Thánh Linh, Đấng từ ban đầu đã tạo ra trời đất muôn vật (SaSt 1:2), Đấng từng linh cảm các nhà tiên tri (IIPhi 2Pr 1:21), và cũng chính là Đấng ban quyền năng cho Chúa Giê-Xu (LuLc 3:22 4:14,18), “Chúa ban xuống vì Đức Chúa Giê-Xu chưa được vinh hiển”. Đức Thánh Linh cũng đồng thời hoàn tất mọi chức năng khác nữa, nhưng Ngài chỉ có thể bắt đầu khiến cho lòng người ta nhận biết sự vinh hiển của sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-Xu sau khi sự chết và sự phục sinh của Ngài đã thật sự xảy ra.
Khi các trước giả tân Ước nói về những người nhận được Thánh Linh, việc bắt đầu bước vào kinh nghiệm của giao ước mới, bằng cách bày tỏ sự vui mừng, bằng thái độ hoan hỉ tuôn tràn thành những lời cảm tạ và làm chứng (dĩ nhiên là thỉnh thoảng cũng có nói tiếng lạ và tiên tri nữa) do kinh nghiệm ấy đã mang đến cho họ (xem Cong Cv 2:38 8:15 10:47 19:2 RoRm 8:15 GaGl 3:2). Theo nghĩa này các tín hữu Cựu Ước sống trước thời của Đấng Christ, đã không nhận được Thánh Linh. Nhưng từ khi mọi việc ăn năn và tiếp nhận hồng ân của Đức Chúa Trời do Đức Thánh Linh truyền dạy và viết ra, thì chúng ta phải nhấn mạnh rằng, theo một ý nghĩa khác căn bản hơn, họ thực sự đã được nhận lãnh Đức Thánh Linh, nhưng trường hợp dân Samari trước ngày Phierơ và Giăng đến với họ, bất chấp những câu trong Cong Cv 8:15 và tt.
Bắt nguồn từ kinh nghiệm từ giao ước mới ngôn ngữ của Tân Ước đề cập Đức Thánh Linh cũng tự nhiên tập trung chú ý vào kinh nghiệm này và không phải bao giờ cũng có một quan điểm căn bản hơn - tuy các trước giả vẫn ý thức rõ ràng khi có sự ăn năn hối cải và đức tin, đều là do ân tứ của Đức Chúa Trời (Cong Cv 5:31 11:18 Eph Ep 2:8).
Vậy thì “phép Báp-tem bằng (trong) Đức Thánh Linh” là gì? Theo lời phán của Chúa Giê-Xu trong Cong Cv 1:5, chúng ta định nghĩa đó là việc Thánh Linh đến với một ai đó để người ấy bắt đầu chức vụ của giao ước mới, như đã được mô tả. Với các môn đệ của Chúa Giê-Xu, việc ấy xảy ra vào ngày lễ Ngũ tuần, tuy họ đã có đức tin từ trước; với tất cả những người khác, thì nó xảy ra lúc ăn năn quy đạo. Vì vậy ngày nay đối với bất luận một kinh nghiệm hậu ăn năn quy đạo nào, mà gọi là “phép Báp-tem bằng (trong Thánh Linh, là đã dùng từ sai.
BƯỚC ĐẦU LÀM CƠ ĐỐC NHÂN
Từ ngày lễ Ngũ tuần trở đi, trở thành một người của gia đình Đức Chúa Trời theo ý chỉ đã được mặc khải của Ngài - nói theo thuật ngữ là bắt đầu trở thành Cơ Đốc nhân - bao gồm ba yếu tố: ăn năn hối cải và đức tin, cộng với phép báp-tem để trở thành Cơ Đốc nhân, cộng với phép Báp-tem bằng Thánh Linh cho một chức vụ của giao ước mới (xem Cong Cv 2:38 RoRm 8:9 và tt, Eph Ep 1:13 và tt). Theo kinh nghiệm, thứ tự có thể khác nhau; rõ ràng là vào ngày lễ Ngũ tuần, thứ tự đó là đức tin - phép Báp-tem - Thánh Linh (Cong Cv 2:38-42), vào ngày “lễ Ngũ tuần cho người ngoại bang” (Cong Cv 10:44-48) thứ tự đó là đức tin - Thánh Linh phép Báp-tem; còn tại Galati (GaGl 3:2), thứ tự đó chắc chắn là đức tin - Thánh Linh phép Báp-tem đều chắc chắn đối với toàn thể các Cơ Đốc nhân trở về sau đã được làm phép Báp-tem cho lúc hãy còn bé, thứ tự đó là phép Báp-tem-đức tin, Thánh Linh. Thứ tự chẳng quan trọng bao nhiêu; điều quan trọng là tất cả ba mối liên hệ kết chặt chúng ta lại với Đức Chúa Giê-Xu Christ, tức là đức tin phép Báp-tem và Thánh Linh - đều phải có thật sự.
Khi Phaolô nói rằng chúng ta thảy đều chịu phép Báp-tem (bởi Đấng Christ) trong cùng một Thánh Linh để trở thành cùng một thân thể (ICo1Cr 12:13), là ông nghĩ về phép Báp-tem bằng nước và ân tứ của Thánh Linh như hai phương diện bổ túc cho nhau trong cùng một hành động duy nhất của Đấng Christ, là Đấng đã công bố và kết hợp hay dầm thấm chúng ta vào (hình ảnh của Phaolô trong RoRm 10:17-24), sự liên hiệp sống động trong chính Ngài. Cho nên, những người ăn năn quy đạo đã nhận lãnh Thánh Linh rồi cũng phải tìm cơ hội để chịu phép Báp-tem, còn người đã chịu phép Báp-tem rồi cũng phải thực hiện việc ăn năn quy đạo, để cũng được nhận lãnh Thánh Linh? Trong chủ đích của Đức Chúa Trời đã được mặc khải liên hệ đến đời sống chúng ta, phép Báp-tem bằng nước và phép Báp-tem bằng Thánh Linh được kết hợp làm một với nhau. Xin đừng ai trong chúng ta tách rời chúng ta, dầu là trong tư tưởng hay trong thực hành.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Được đổ đầy Đức Thánh Linh: Cong Cv 6:1-10 Eph Ep 5:15-20
Đức Thánh Linh trong thân thể: ICo1Cr 12:1-13
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Giao ước mới là gì? Bản thân bạn có tin mình đang sống trong giao ước mới hay không? Tại sao?
2. Theo ý nghĩa nào, các tín hữu Cựu Ước không nhận được Thánh Linh? Theo ý nghĩa nào, họ nhận được Thánh Linh?
3. Phép Báp-tem bằng Đức Thánh Linh là gì? Nó có liên hệ gì với thân thể Đấng Christ?
NỀN TẢNG CƠ ĐỐC GIÁO
Làm Cơ Đốc nhân là việc kết hợp giáo lý, kinh nghiệm và sống đạo. Cả cái đầu, trái tim, lẫn đôi chân đều phải nhập cuộc Giáo lý và kinh nghiệm không đem ra thực hành sẽ biến tôi thành kẻ bại liệt có thể hiểu biết những điều thuộc linh; kinh nghiệm cộng với sống đạo không biết giáo lý sẽ biến tôi thành kẻ mộng du thuộc linh, cứ vừa bước đi vừa ngủ gục, cứ đi mãi không có nơi nào để ngừng nghỉ. Để cho Đấng Christ được thành hình trong tôi, cả giáo lý, từng trải và việc sống đạo, phải cùng có mặt bên nhau.
Hiện nay, Cơ Đốc giáo chủ trương người ta biết được Đấng tạo Hóa là nhờ các thực tại vật chất: trật tự thiên nhiên, phần xác thịt của Chúa Giê-Xu, các biểu tượng đã được Hội Thánh truyền dạy phải tôn trọng, trong đó có phép Báp-tem. Cơ Đốc giáo rất thường dễ bị xuyên tạc và hiểu lầm: bạn cứ thử hỏi sáu người, yêu cầu họ định nghĩa xem Cơ Đốc giáo là gì, rất có thể bạn sẽ được sáu câu trả lời khác nhau. Nhưng phép Báp-tem, được chính Chúa Giê-Xu thiết lập, vẫn là một nhân chứng vững vàng và cho thấy phần giáo lý thiết yếu, kinh nghiệm và cách thực hành nó, thực sự như thế nào.
BA NGÔI ĐỨC CHÚA TRỜI
Phép Báp-tem về mặt giáo lý được bày tỏ trong việc Ba Ngôi Đức Chúa Trời lập giao ước với con người. Chúa Giê-Xu truyền dạy phải giữ phép Báp-tem “nhơn danh Đức CVhúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh” (Mat Mt 28:19). “Danh” trong Kinh Thánh, thường có nghĩa là “bản thân con người ấy”, và khi viết theo số ít, tức chỉ sự kiện ba ngôi, do một sự kết hợp huyền nhiệm, của chỉ một Đức Chúa Trời hợp nhất, chớ không phải là có đến ba Đức Chúa Trời. “Nhơn” (nghĩa đen: hướng về) chỉ mối liên hệ được thiết lập giữa chúng ta với từng ngôi một trong ba ngôi Đức Chúa Trời.
Vì Ba Ngôi Đức Chúa Trời là một giáo lý Cơ Đốc giáo gây nhiều kinh ngạc, khó khăn và khó phân biệt nhất, hoàn toàn khác biệt với một hình thức tin tưởng về Đức Chúa Trời (Thượng Đế) khác, cho nên đó cũng chính là chân lý căn bản nhất của Cơ Đốc giáo, vì toàn thể Phúc âm đều được đặt trên nền tảng ấy. Theo Kinh Thánh đó là sự cộng tác giữa Ba (Ngôi) để đem sự cứu rỗi đến (cho loài người) chúng tôi xin vạch rõ điều này.
Đức Chúa Cha lập kế hoạch cứu rỗi, chọn Đức Chúa Con làm sinh tế (IPhi 1Pr 1:20) chúng ta là tội nhân, làm dân Ngài (Eph Ep 1:1-23) Ngài phác thảo kế hoạch của mình. Theo ý chỉ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con sẽ nhập thể (mặc lấy xác thịt như chúng ta) để cứu chuộc chúng ta, trả giá phải trả cho tội lỗi chúng ta trên thập tự giá (IGi1Ga 4:9 và tt). Ngài đã vĩnh viễn chiến thắng sự chết bằng sự sống lại của Ngài; hiện đang sống để cầu thay cho những người thuộc về Ngài (RoRm 8:27 HeDt 7:25, nghĩa là đang vì họ mà hành động để họ được hưởng tất cả quyền lợi Ngài đã vì họ, chiến cho họ. Đức Thánh Linh được Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con phái đến (GiGa 14:26 15:26) để tái tạo chúng ta bằng sự tái sanh (sanh lại thành con người mới, GiGa 3:5 IICo 2Cr 5:17) dẫn dắt chúng ta đến chỗ tin nhận Đấng Christ bởi đức tin (Eph Ep 1:17 3:16 và tt) và biến hóa, thay đổi chúng ta để chúng ta trở nên giống như Đấng Christ (IICo 2Cr 3:18).
Phủ nhận thần tánh của ngôi Đức Chúa Con hoặc ngôi Đức Thánh Linh, tức là bạn cũng đặt vấn đề, cũng thắc mắc về chức vụ của người ấy; như thế sự cứu rỗi bị sụp đổ tan tành. Cho nên công thức về phép Báp-tem mà Đấng Christ đã đề ra, khẳng định về Đức Chúa Trời Ba Ngôi chúng ta phải dâng hiến để phục vụ, là giáo lý bảo toàn phần nền tảng, phần căn bản của Phúc âm.
SỰ XƯNG CÔNG BÌNH
Kinh nghiệm phép Báp-tem là bỏ sự ô uế lại đằng sau lưng, là mọi thất bại, lầm lỗi phạm tội của một người đều đã được tẩy sạch cả rồi, khiến người ấy có thể trở lại bắt đầu một đời sống mới. Ý nghĩa biểu tượng song phương của sự tẩy rửa và sống lại nói lên điều đó. Như vậy, phép Báp-tem diễn tả thông điệp Phúc âm của Đức Chúa Trời hậu thuẫn cho sự tha tội và tiếp nhận chúng ta khi chúng ta tin nơi huyết Chúa Giê-Xu đã bị đổ ra, là thông điệp về sự xưng công bình bởi đức tin (cách nói của Phaolô; xem RoRm 3:21-5:21 GaGl 2:15-3:29).
Thất bại đạo đức là một sự kiện phổ quát, còn một lương tâm phạm tội bị sỉ nhục và ô uế, bị tố cáo, là những kinh nghiệm vô cùng phổ biến trong nhân loại. Cho nên, việc tẩy sạch lương tâm, không phải chỉ một lần duy nhất nhưng là hằng ngày, là một nhu cầu phổ quát, còn kinh nghiệm nơ phép Báp-tem là biểu tượng là một kinh nghiệm mà nếu không có nó, sẽ chẳng hề có ai tự hiểu rõ mình mà còn có đủ can đảm để bảo rằng mình còn sống. “Là kẻ đồi bại, con chạy đến với suối nước; Lạy Cứu Chúa, xin tẩy sạch con, bằng không, con chắc phải chết”
ĂN NĂN HỐI CẢI
Nẻo đường thực tế phép Báp-tem dẫn người ta đến là bằng lòng thay đổi, là yên tĩnh của sự ăn năn. Tôi không tự làm phép Báp-tem cho mình; vị mục sư đưa tôi ra khỏi nước. Điều này cho thấy ăn năn thống hối và tự chối mình thật sự, nghĩa là giao sợi dây cương điều khiển đời sống mình cho Đấng Christ cầm giữ, để Ngài sẽ hướng dẫn ta đi đâu tùy ý Ngài. Mỗi người đều tự nhiên có tinh thần tự quyết và liều lĩnh ngang ngạch, như W.H.Auden viết: “Chúng ta đều thà chết chớ không chịu thay đổi”. Đây là một sự thật nhiều khi cũng có chỗ tốt, chỗ hay của nó. Nhưng sẵn sàng chịu để cho Đấng Christ biến cải mình (đây không phải là một tình trạng tự nhiên của tâm trí, nhưng là một ân tứ do ân điển ban cho) vẫn là yếu tố căn bản trong đời sống hành đạo của tất cả các Cơ Đốc nhân chân chính.
Phép Báp-tem đòi hỏi chúng ta phải đối đầu, và cứ duy trì mãi sự đối đầu trực diện đó, với các mẫu mực căn bản về giáo lý, kinh nghiệm và sống đạo trong Cơ Đốc giáo của Đấng Christ. Tự nó, là phần chủ yếu mà phước hạnh của phép Báp-tem đem đến cho chúng ta.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Giáo lý, kinh nghiệm, sống đạo: RoRm 6:15-7:6
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Phép Báp-tem có liên hệ gì với giáo lý Ba Ngôi?
2. Tác giả thấy ý nghĩa biểu tượng song phương nào trong phép Báp-tem, và điều đó nói gì về chúng ta?
3. Phép Báp-tem thách thức câu nói: “Chúng ta thà chết chớ không thể thay đổi” như thế nào?
PHÉP BÁP-TEM VÀ TRẺ SƠ SINH
Có một đề tài gây chia rẽ không mấy vui vẻ cho Hội Thánh, đó là phép Báp-tem.
Chẳng có ai bênh vực cho việc làm phép Báp-tem cho trẻ sơ sinh ngay lúc chúng được sanh ra đời cả, nhưng phần lớn các giáo phái đều làm phép Báp-tem cho con cái của những người đã chịu phép Báp-tem. Tuy nhiên, giáo hội Báptít xem việv làm ấy, hoặc không phải là phép Báp-tem (vì trẻ sơ sinh không đáp ứng được các điều kiện về xưng nhận đức tin) hoặc là phép Báp-tem bất bình thường (vì giáo hội ấy bảo rằng rõ ràng là nó không phù hợp với lời truyền dạy của các sứ đồ, cũng không phải là khôn ngoan về phương diện mục vụ). Có người chủ trương vì trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời không thật sự truyền dạy phải làm phép Báp-tem cho trẻ con, điều đó có nghĩa là Đức Chúa Trời cấm đoán việc làm ấy. Mọi người đề khuyến cáo nên hoãn việc làm phép Báp-tem cho đến khi người ta có ý thức về đức tin rồi mới thi hành là tốt nhất.
Để chống lại Giáo hội Báptít, có người suy luận từ nền thần học về giao ước rằng dầu sao Đức Chúa Trời cũng truyền dạy phải làm phép Báp-tem cho các trẻ sơ sinh của các tín hữu. Một số đông hơn nữa chủ trương rằng cách làm như vậy tuy được Hội Thánh định đoạt, nhưng được sự bảo đảm về phương diện thần học, lịch sử, và mục vụ nhiều hơn là lựa cách khác, cho nên cần nghĩ về nó - như lời lẽ trong Điều XXVII của Điều lệ Anh quốc giáo - như là “phù hợp nhất với định chế của Đấng Christ”
Chúng ta phải nhìn vấn đề này như thế nào? Xin cân nhắc các điểm sau đây:
TRANH LUẬN QUÁ NHIỀU
Thứ nhất: những người nhiệt thành bảo thủ cho cả hai phía dường như đã tranh luận quá nhiều. Kinh Thánh không truyền dạy cũng không cấm đoán việc làm phép Báp-tem cho trẻ con, cho nên chúng ta không nên quyết đoán Đức Chúa Trời là Tác Giả thật của sách ấy, Đấng đã hướng dẫn các trước giả là con người, có ý viết thế này hay thế kia.
Việc làm phép cắt bì cho trẻ con thuộc phái nam theo lịnh truyền của Đức Chúa Trời dưới giao ước cũ, kết hợp với việc Phaolô nhấn mạnh dưới giao ước mới, con cái của các tín hữu cũng “thánh” (được dâng lên cho Đức Chúa Trời và được Ngài vui nhận) như cha mẹ chúng (xem SaSt 17:9-14) khiến việc làm phép Báp-tem cho trẻ con thoáng nhìn có vẻ như phải lẽ. Nếu cha mẹ và con cái liên đới với nhau dưới giao ước của Đức Chúa Trời là một sự kiện bất biến, để qua đó người ta cũng đặt nền tảng cho mạng lệnh trước kia của Đức Chúa Trời về phép cắt bì (là dấu hiệu thời bấy giờ của giao ước) cho trẻ con sơ sinh là con trai, từ chối phép Báp-tem (là dấu hiệu của giao ước mới) cho trẻ sơ sinh ngày nay, làm sao lại gọi là phải lẽ được?
Hơn nữa, việc làm phép Báp-tem cho trẻ con chắc chắn là cách làm của các sứ đồ. Cả “nhà” (nghĩa là tất cả những người trong một đại gia đình) của Lyđi, của người đề lao tại Philíp, và Sêphana đều chịu phép Báp-tem - trong trường hợp người đề lao chỉ mấy giờ sau khi ông ta ăn năn quy đạo (Cong Cv 16:15,33, ICo1Cr 1:16). Suy diễn rằng đây là việc làm định chuẩn: khi người làm đầu trong gia đình ăn năn quy đạo, cả gia đình gồm luôn trẻ con nữa cũng ăn năn tin nhận, là điều hết sức tự nhiên. Luca và Phaolô chắc đã không nói “cả nhà” mà không cần giải thích cặc kẽ gì thêm nếu hai vị ngụ ý bảo rằng theo nguyên tắc, trẻ con phải bị loại trừ.
Đặc điểm thần học và tiền lệ rõ ràng chắc chắn đã biện minh cho việc làm phép Báp-tem cho trẻ con ngày nay nhưng đó chỉ là điều được thêm vào không thể có giá trị như mạng lệnh của Đức Chúa Trời.
Thứ hai: các luận cứ chống lại phép Báp-tem cho trẻ con thiếu động lực thúc đẩy:
1. Đã có khuyến cáo rằng việc xưng nhận đ0ức tin phải là một phần trong định nghĩa của phép Báp-tem. Nhưng không có chỗ nào trong tân Ước dạy như vậy cả; đó là một vấn đề được yêu cầu chấp nhận do việc suy diễn ra từ sự kiện theo Tân Ước những người đã trưởng thành sẽ không được làm phép Báp-tem nếu không có việc xưng nhận như vậy; đây là cách làm trong thực tế về sau này.
2. Đã có khuyến cáo rằng các trẻ con chịu phép Báp-tem không nên bị đòi hỏi phải tự mình xưng nhận đức tin. Nhưng các bậc cha mẹ, ông bà quản lý các trẻ con ấy lúc chứng nhận phép Báp-tem đều phó thác chúng cho sự ăn năn và đức tin. sách giáo lý Cầu nguyện chép: “hứa rằng, khi chúng đến tuổi, sẽ tự bó buộc mình thực hiện”; và mọi nghi lễ tương đương nhằm tiếp nhận người trưởng thành làm thành viên của Hội Thánh, các đòi hỏi tự mình phải xưng nhận đức tin là chủ yếu.
3. Có khuyến cáo rằng làm phép Báp-tem cho trẻ con làm nảy sinh quá sớm thái độ tư thị, vì người đã chịu phép báp-tem như vậy tưởng rằng mình đã được tái sanh và được cứu chẳng cần gì phải có đức tin. Người của Giáo hội Báptít chỉ cần gật đầu khi nghe lời tuyên bố của sách kinh thánh lễ cầu nguyện sau khi đã chịu phép Báp-tem: “Vì giờ đây, đứa trẻ này đã được tái sanh...Tôi đã trở thành một chi thể của Đấng Christ, một con cái của Đức Chúa Trời một người được thừa kế nước thiên đàng”. Nhưng những câu đó chỉ nói lên phần nghi lễ, ban cho chúng ta các quyền lợi và đặc quyền thuộc linh là các hậu quả thật sự của phép Báp-tem; và như Tổng giám mục Usher có viết từ lâu rồi, tôi chỉ “được hưởng chúng (các lời hứa của ân điển) khi nào tôi thông hiểu được những gì Đức Chúa Trời ban cho trong phép Báp-tem đã được ấn chứng trong tôi và thật sự bám chặt vào đó bởi đức tin”.
PHƯƠNG DIỆN MỤC VỤ
Giáo hội Báptít vì nóng lòng muốn nói lên ý niệm của Đức Chúa Trời truyền dạy cho Hội Thánh chỉ gồm toàn những người đã tin Chúa rồi mà thôi, nên cử hành lễ dâng trẻ con (phép Báp-tem khô, theo quan điểm của những người chủ trương làm phép Báp-tem cho trẻ con), và phép Báp-tem bằng nước cho người đã đến tuổi khôn lớn. Các giáo hội Tin Lành khác, cũng nóng lòng muốn nói lên tính cách liên đới trong gia đình mà Đức Chúa Trời đã dạy trong giao ước, nên làm phép Báp-tem cho trẻ con và cử hành xác nhận đức tin khi người ta đã đến tuổi khôn lớn (theo quan điểm người Báptít đó là phép Báp-tem khô). Với những người chủ trương làm phép Báp-tem cho trẻ con và các nhóm theo Giáo hội báptít, cũng cộng tác với nhau trong sự kính trọng lẫn nhau, chẳng có gì khó khăn cả, khi về phương diện mục vụ (cảm tạ Đức Chúa Trời!) cả hai cách hành lễ đều hầu như giống hệt nhau.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Ân điển của Đức Chúa Trời dành cho trẻ con: ISam chương 3; LuLc 1:5-25 Eph Ep 6:1-4.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tác giả ghi nhận những điểm tương đồng nào giữa phép cắt bì và phép Báp-tem? Trong phạm vi nào, chúng biện minh việc làm phép báp-tem cho trẻ em? Bạn lý luận như thế nào để biện bênh vực quan điểm của mình chống lại những người phán đoán khác hơn thế?
2. Người ta có thể trông đợi để đòi hỏi gì nơi những người đã trưởng thành mới chịu phép Báp-tem, mà không nên trông đợi nơi trẻ con?
3. Trẻ con chịu phép Báp-tem có nhất thiết nhận được các lợi ích thuộc linh mà nghi lễ ấy biểu tượng không? Tại sao có và tại sao không?
PHÉP BÁP-TEM. LỄ XÁC NHẬN ĐỨC TIN VÀ SỰ XƯNG TỘI.
Các giáo hội Anh quốc thuộc số những giáo hội chấp nhận những người đã chịu phép Báp-tem lúc hãy còn bé, được dự tiệc thánh nhờ một nghi lễ xác nhận đức tin (confirmation). Trong nghi lễ này, vị giám mục đặt tay trên các ứng cử viên và cầu nguyện xin Đức Thánh Linh thêm sức cho họ. Điều này có nghĩa gì?
MỘT LỐI MÒN DẪN ĐI SAI.
Trước hết, nó không có nghĩa là cho đến lúc đó đối với người ấy Đức Thánh Linh hiện diện ngự trị trong lòng, hay các ân tứ hoặc một vài phương diện nào đó của quyền năng tái sanh, thánh hóa hoặc việc bảo đảm cho chức vụ đã bị cầm giữ lại cách nào đó. Cũng không phải nhờ lễ xác nhận đức tin, chúng ta sẽ nhận lãnh Thánh Linh và những điều lợi ích Ngài ban cho, và nếu không có nghi lễ ấy, chẳng cần phương pháp nào khác để nhận lãnh được. Các ý kiến như trên rất phổ biến, nhưng thật ra, đó chỉ là sự mê tín, phản ảnh niềm tin của thời Trung cổ rằng lễ xác nhận đức tin là một thánh lễ (Sacrement) mà Phierơ và Giăng đã thực thi khi hai ông đặt tay trên người Samari sau khi cầu xin Đức Thánh Linh giáng trên họ (Cong Cv 8:14-17), và cho rằng các thánh lễ mang ý nghĩa là những phương tiện duy nhất và bình thường để đem các phước hạnh.
Nhưng không có điểm nào trên đây là đúng cả. tân ước chỉ biết đến hai thánh lễ, theo nghĩa các dấu hiệu do Đức Chúa Trời ban để bảo đảm cho các tín hữu nhận được các phước hạnh đặc trưng, tức là phép Báp-tem và tiệc thánh. Động tác đặt tay trên người mà bạn cầu nguyện cho, là dấu hiệu tỏ ra thiện chí và quan tâm, như hai sứ đồ Phierơ và Giăng từng bày tỏ đối với người Samari, Phaolô đối với các môn đệ tại Êphêsô, và các lãnh tụ tại Antiốt, đối với Phaolô và Banaba (Cong Cv 19:6 13:4) và Phaolô với một vị trưởng lão không được nêu tên đối với Timôthê (IITi 2Tm 1:6 ITi1Tm 4:14) lại là chuyện khác.
Kinh Thánh cũng vạch rõ các ân tứ ngụ ý và bảo đảm sẽ ban cho các tín hữu các thánh lễ và không chỉ nhờ thánh lễ họ mới được ban cho. Sự chuộc tội là một phần của sự xưng công bình bởi đức tin, là một thí dụ rõ ràng: hãy đối chiếu Cong Cv 2:38 22:16 với RoRm 3:21-5:1, và GaGl 3:29.
Chắc chắn ý niệm của Tân Ước về bước đầu tiên (intimation) là việc người ta làm một Cơ Đốc nhân trong Hội Thánh. Không thể có chuyện “người cô đơn chạy đến với Một Đấng Đơn Độc”; chúng ta được cứu tập thể, như những đơn vị cấu thành thân thể Đấng Christ, hoặc là chẳng hề được cứu. Điều cũng rất chắc chắn, ấy là bước đầu tiên theo Kinh Thánh, gồm có đức tin, được thực thi và xưng nhận; việc được tiếp nhận vào cộng đồng tín hữu bằng phép Báp-tem nhân danh Ba Ngôi Đức Chúa Trời; về việc nhận lãnh hay được ấn chứng bằng ân tứ của Đức Thánh Linh (Cong Cv 2:38 IICo 2Cr 1:22 5:5 Eph Ep 1:13 4:30). Nhưng như có một số người tưởng rằng lễ xác nhận đức tin bổ sung cho phép Báp-tem để có nghĩa là việc ban ân tứ của Đức Thánh Linh, là không đúng. Trong Tân Ước, phép Báp-tem có đầy đủ các phương diện của việc được bước vào một đời sống mới trong Đấng Christ, kể cả ân tứ của Đức Thánh Linh (Cong Cv 2:38 ICo1Cr 12:13). Tuy nhiên, lễ xác nhận đức tin không thuộc về bước đầu tiên theo Kinh Thánh, vì trong Kinh Thánh không hề thấy chép gì về một nghi lễ như vậy.
“VÂNG”
Nhưng nếu đó chỉ là truyền thống của giáo hội tại sao chúng ta lại cứ thực hành? Nó có xứng đáng để cứ được duy trì hay không? Có, vì hai lý do, một có tính cách thần học, và một có tính cách mục vụ.
Thứ nhất: có một yếu tố trong bước đầu tiên làm Cơ Đốc nhân, mà việc làm phép Báp-tem cho trẻ con không cung ứng được, tức là việc mỗi cá nhân phải tự xưng nhận đức tin của mình trước Hội Thánh. Chúng ta có thể xem việc trẻ sơ sinh của các tín hữu chịu phép Báp-tem là theo đúng ý chỉ Đức Chúa Trời, nhưng xưng nhận đức tin khi đã khôn lớn, cũng là ý chỉ của Đức Chúa Trời (ở đây thì Giáo hội Báptít đúng! - xem RoRm 10:9 ICo1Cr 12:3 ITi1Tm 6:12). Sự xưng nhận đức tin cá nhân chứng minh rằng chúng ta “biết phân biệt thân Chúa” nghĩa là tự mình hiểu rõ ý nghĩa và tính cách thích hợp của chính mình với lời dạy của Chúa Giê-Xu khi ban tiệc thánh trong Bữa Tiệc Tối Cuối Cùng “Này là thân thể ta vì các ngươi” (ICo1Cr 11:29,24). Như vậy, việc tự mình xưng nhận đức tin khiến chúng ta có đủ tư cách để được dự tiệc thánh, là điều chỉ dành riêng cho những người đã tin Chúa mà thôi. Lễ xác nhận đức tin chứng nhận việc chúng ta xứng đáng tham gia việc thờ phượng chủ yếu này.
Thứ hai: lễ xác nhận đức tin là điểm dưỡng dục trong đời sống Cơ Đốc nhân, nơi thành viên còn non trẻ, được Hội Thánh quản lý, trở thành thành viên thành nhơn, căn cứ vào việc chúng ta tự chấp nhận phó dâng đức tin mình và khước từ ma quỉ, thế gian và xác thịt mà những người đỡ đầu, quản lý chúng ta vẫn làm thay cho chúng ta trước đây. Trong sách hướng dẫn lễ cầu nguyện, vị giám mục hỏi: “Tại đây, trước mặt Đức Chúa Trời và hội chúng, phải chăng bạn nhắc lại lời thề trang trọng mà bạn đã hứa vào ngày chịu phép Báp-tem, để đồng ý và xác nhận y như thế không?” Câu trả lời về phần bạn là “Vâng” - là câu nói nếu được thốt ra thật lòng, ở đây cũng như lúc làm lễ hôn phối, nói lên một sự việc tối quan trọng.
Rồi sau khi nghe các ứng viên xác nhận đức tin bằng cách xưng nhận như thế, Hội Thánh cùng với vị giám mục sẽ cầu nguyện, xin cho mỗi người đều xác quyết, đều được gây dựng và tăng thêm sức lực bởi thánh Linh của Đức Chúa Trời để hoàn thành lời thề nguyện phó dâng đời mình.
Điều đó có ý nghĩa xây dựng chăng? Mang ý nghĩa của một Cơ Đốc nhân chăng? Bạn nghĩ sao?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Người xưng nhận phó dâng: ITi1Tm 6:11-21 IITi 2Tm 1:8-14
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao thừa nhận các ân tứ Đức Chúa Trời ban cho chúng ta không phải chỉ đến qua các thánh lễ, là điều quan trọng?
2. Việc tự mình phải xưng nhận đức tin quan trọng như thế nào?
3. Tại sao Tiệc Thánh chỉ dành riêng cho người tin Chúa mà thôi?
PHÉP BÁP-TEM VÀ SINH HOẠT HỘI THÁNH
Thế nào là một Cơ Đốc nhân? Phép Báp-tem cho chúng ta biết: đó không phải chỉ là một người làm việc lành, việc phước thiện, nhưng là người đã ăn năn quy đạo và phó dâng đời mình cho Đấng Christ hằng sống, một người đã được tái sanh, được huyết Đấng Christ tẩy sạch mọi tội lỗi, và hiện được Thánh Linh của Đấng Christ ngự trong lòng. Hội Thánh là gì? Một lần nữa, phép Báp-tem cũng nói cho chúng ta biết: đó không phải là một câu lạc bộ, một nhóm người có cùng một mối bận tâm họp nhau lại để tổ chức ra, nhưng là một cơ cấu siêu nhiên gồm các tín hữu được liên kết chặt chẽ với Thầy, với Chủ mình, để qua Ngài, được liên kết chặt chẽ với nhau, để tất cả đều thật sự là những “chi thể” của nhau, còn Ngài là cái “Đầu”. Phaolô nói, như chỉ có một thân thể, một Chúa, một đức tin thể nào, thì cũng chỉ có một phép Báp-tem (Eph Ep 4:4) sở dĩ chỉ có một mà thôi, vì phép Báp-tem luôn luôn có nghĩa là sự hiệp một trong đức tin với Chúa để chỉ thành một thân thể mà thôi.
Khi nói “thành viên Hội Thánh”, bình thường chúng ta muốn nói về một người đã được tiếp nhận vào việc thờ phượng cộng đồng; khi nói “Thân thể Cơ Đốc nhân” (body of Christians) là chúng ta thường ngụ ý ám chỉ một hội đoàn nhân danh Đấng Christ (a denomination). Nhưng Tân Ước không hề biết tới các thành viên Hội Thánh hay các bộ phận cơ đốc nhân (giáo phái) mà chỉ biết có các chi thể của Đấng Christ và thân thể Ngài mà thôi. Thói quen trên của chúng ta bắt nguồn từ Kinh Thánh, nhưng đã tách rời, không bám sát cả phần văn phạm lẫn với ý nghĩa của Kinh Thánh. Thân thể Đấng Christ, theo Kinh Thánh thiết yếu là những người bình dân cùng sống chung với nhau trong một đời sống mới mẻ và phi thường vì Chúa phục sinh đã đụng chạm đến, đã tự giành lấy cho mình, và hiện đang điều khiển, kiểm soát họ. Khi chúng ta nói “thân thể” hay “chi thể”, chúng ta phải nghĩ về “Hội Thánh” và “thành viên Hội Thánh”.
ĐẠO ĐỨC HỌC VỀ HỘI THÁNH
“Sinh hoạt Hội Thánh” là thành ngữ phổ biến đề cập màng lưới các mối quan hệ với nhau, mà Đấng Christ vừa kêu gọi vừa khiến các chi thể của thân Ngài phải gây dựng. Là một dấu hiệu của việc hội nhập vào điều mà sách thánh lễ Cầu nguyện Anh quốc mô tả là “thân thể huyền nhiệm của Con (Đức Chúa Trời) cùng với toàn thể những người được phước và trung tín”, phép Báp-tem chẳng những đưa chúng ta đến chỗ ăn năn quy đạo mà đồng thời, còn phải thực hành nền đạo đức học của sinh hoạt thân thể trong gia đình Cơ Đốc giáo nữa. Kinh Thánh vạch rõ nền đạo đức học ấy, trước hết là bằng sự tôn trọng và sau đó là sự phục vụ.
1. Đánh giá: “Vả, anh em thảy đều chịu phép Báp-tem trong Đấng Christ, đều mặc lấy Đấng Christ vậy. Tại đây, không còn chia ra người Giuđa hoặc người Gờ réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Giê-Xu Christ, anh em thảy đều làm một” (GaGl 3:27 và tt). Những dị biệt do chủng tộc, xã hội, kinh tế, văn hóa và giới tính tác động vào để hạn chế chúng ta tiếp nhận lẫn nhau không thể bị phá hủy, nhưng phải vượt qua giới hạn đó áp đặt. Trong thân thể Đấng Christ, tất cả mọi người phải tiếp đón và tôn trọng lẫn nhau như “các chi thể của nhau” (Eph Ep 4:25). Tất cả những ai đã được Đức Chúa Trời là con cái Ngài, đều phải được chúng ta xem trọng như anh em mình; tất cả những ai là chi thể trong thân của Đấng Christ, đều phải được chúng ta thương yêu trìu mến chính thân thể của mình vậy (xem ICo1Cr 12:25 Eph Ep 4:28 và tt) Chúa Giê-Xu từng chứng tỏ là trong thực tế, cần quan tâm chú ý đến các môn đệ thấp hèn và nghèo thiếu nhất của Ngài, chính vì họ là môn đệ Ngài; phải xem đó như yếu tố cần thiết của Cơ Đốc giáo chân chính (xem Mat Mt 10:42 25:34-45 đối chiếu Gia Gc 1:27).
Bạn không nên nghĩ về điều đó bằng cách theo dõi xem có gì xảy ra trong các chi hội của chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời muốn cho sinh hoạt trong xã hội mới của Ngài phải là cả một sự bùng nổ trọn vẹn của tình yêu thương trìu mến, thiện chí, những tấm lòng thiết tha cởi mở và tình bạn thân thiết (chắc bạn sẽ bảo tôi: Thế mỗi người chúng ta đã làm được gì trong tất cả những điều đó?)
2. Phục vụ. Phục vụ là tình yêu thương được biến thành hành động. Phaolô nói: “Thân thể Đấng Christ” tự gây dựng trong sự yêu thương (agape)” (Eph Ep 4:16). Từ ngữ agape (yêu thương) trong Kinh Thánh vượt hẳn lời nói ngọt hay nụ cười tươi suông; mức độ của nó là điều xấu điều ác mà bạn tránh gây ra, và điều tốt. điều thiện mà bạn ban phát trên đường. Vậy, làm thế nào để Hội Thánh được gây dựng trong sự yêu thương? Bằng cách “mỗi chi thể...đều hoạt động phải lẽ, thích hợp” trong sự thông công (Koinonia). Koinonia có nghĩa là ban cho và nhận lấy đúng theo công thức phi thường của Bản Tuyên Ngôn Cộng sản: “Cung tùy khả năng; cấp theo nhu cầu”. Những gì Đức Chúa Trời ban cho để chúng ta cùng chia xẻ cho nhau, phải được đem ra để chia xẻ cho nhau - chớ không phải là để đầu cơ tích trữ.
Sự chia xẻ đó là sự thông công (Koinonia: phục vụ) mà mỗi một Cơ Đốc nhân đều được kêu gọi phải thực hành. Phaolô nói các nhà truyền đạo, quý vị mục sư phải lo sao “cho các thánh đồ được trọn vẹn về chức dịch và gây dựng” (Eph Ep 4:12). Các ân tứ mà các Cơ Đốc nhân nhận nơi Đức Thánh Linh phải được tận dụng để tha nhân được lợi ích, tốt lành.
ĐƯỢC GỌI ĐỂ PHỤC VỤ
Gây dựng (hay xây dựng thân thể, Hội Thánh) là một công tác tập thể: hoặc là toàn thể chúng ta đều cùng nhau tiến tới việc trở nên trưởng thành giống như Đấng Christ qua việc phục vụ lẫn nhau (tín đồ và tín đồ với nhau, tín đồ phục vụ giáo phẩm, và ngược lại) hoặc là chúng ta đều ngưng đọng lại, rời rạc, riêng biệt nhau. Cho nên mọi sự đều tùy thuộc phần lớn vào việc chúng ta có nghe tiếng gọi hãy tham gia công tác phục vụ của Cơ Đốc giáo mà phép Báp-tem đã loan truyền cho tất cả mọi người chúng ta, hay không.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Phục vụ trong thân thể Đấng Christ: Eph Ep 4:7-16 ICo1Cr 12:14-13:13
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Nguồn gốc và hình thức của “sinh hoạt phi thường” của Cơ Đốc giáo là gì?
2. Kinh Thánh dạy trong Đấng Christ, không có kỳ thị chủng tộc, xã hội, và giới tính. Vậy chúng ta phải đối xử với nhau như thế nào?
3. Tại sao tác giả nói hoặc là chúng ta cùng tiến bộ với nhau hoặc cùng bị dừng lại, rời rạc, riêng biệt nhau? Bạn cho rằng tác giả nói có đúng không? Tại sao?
PHÉP BÁP-TEM CẢI TIẾN
Chẳng có ai nghi ngờ (mà làm sao lại nghi ngờ được?) bài tín điều của Cơ Đốc giáo là chuẩn mực để uốn nắn cuộc đời mình. Nhưng dường như chúng ta không thấy rằng điều đó cũng đúng đối với phép Báp-tem. Nếu phép Báp-tem thật ra có ý nghĩa là ân điển của Đức Chúa Trời đã ban cho sự cứu rỗi, còn đức tin của chúng ta nhận lấy nó, nghi lễ ấy phải nắn đời sống chúng ta; và các Cơ Đốc nhân đã biết rõ như thế ngày hôm qua, tuy hôm nay, có thể người ấy đã quên mất. Cho nên những người Thanh giáo (Puritans) vẫn dạy người ta hãy “sử dụng” và “cải tiến” phép Báp-tem của họ, nghĩa là: (cho dù từ ngữ ấy có gợi ý gì gì đi nữa cho các độc giả hiện đại) phải dùng nó làm nhiên liệu cho đức tin, hi vọng, tình yêu thương, niềm vui và sự vâng lời của họ. Chúng ta cũng phải học bài học này nữa.
BẢY Ý NGHĨA.
Có bảy sách, theo đó, tôi, một người tin Chúa, phải nhìn phép Báp-tem của mình.
Thứ nhất, một nghi lễ theo Phúc âm trong đó “quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (RoRm 1:16) được trình bày bằng biểu tượng, và Đức Chúa Trời đưa ra một lời bảo đảm với riêng tôi rằng bởi đức tin, tôi có thể kinh nghiệm được quyền phép ấy. Tôi đã chắc chắn là đã trải qua trong nước thể nào, thì giờ đây, chắc chắn tôi cũng có quyền đòi hỏi được một đời sống mới trong Đấng Christ y như thế. Vậy phép Báp-tem bảo đảm với tôi rằng mỗi ngày, tôi đều có thể biết rõ hơn, nhiều hơn về sự giải phóng siêu nhiên khỏi điều lệ - tức là tội lỗi, nghi ngờ, sợ hãi, cay đắng, đố kỵ, khổ nạn, các thói hư tật xấu làm tê liệt mình, sự nhu nhược đạo đức, sự cô đơn gây tuyệt vọng (không giống với việc tự cô lập hóa, nhưng là cách phản ứng lại việc đó), và vân vân.
Thứ hai, phép Báp-tem của tôi là một lễ hôn phối, trong đó tôi đã bị phó cho Chúa Giê-Xu là Chủ tôi để trở thành con người của Ngài, người cũng ký giao ước với Ngài “dầu gặp cảnh hiển vinh hay khổ nhục” - nhưng cuối cùng vẫn là cảnh hiển vinh (sự vinh hiển của Ngài), cho đến đời đời. vậy, phép Báp-tem nhắc cho tôi nhớ lại tôi là ai, và tôi phải phục vụ ai; ai là người đã đứng ra thề nguyện là sẽ yêu thương trìu mến tôi, đời đời cùng chia xẻ tất cả những gì mình có với tôi, và ngược lại, tôi phải yêu thương và trung thành với người ấy.
NGÀY CHẾT.
Thứ ba, phép Báp-tem của tôi là một lễ an táng, phó thác con người theo bản tính Ađam trong tôi cho sự hủy diệt hoàn toàn. “Chúng ta bị chôn với Ngài (Đấng Christ) bởi phép Báp-tem (nghĩa là bằng việc làm của Đức Chúa Trời bày tỏ ra trong phép Báp-tem)...làm một cùng Ngài bởi sự chết” vì"người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh trên thập tự giá với Ngài, hầu cho thân thể tội lỗi bị tiêu diệt đi (không phải chỉ có cơ thể mà thôi, nhưng cả đến các động lực sai lầm thúc đẩy, khích động nó nữa, tất cả đều bị khiến nên bất năng bất lực)” (RoRm 6:4-6). Vậy phép Báp-tem bảo tôi đừng sống “theo xác thịt nữa” (nghĩa là khuynh hướng tự thần thánh hóa chính mình), mà phải luôn luôn “nhờ Thánh Linh làm cho chết các việc của thân thể” (RoRm 8:12 và tt).
Thứ tư, phép Báp-tem của tôi là một lễ phục sinh ở trong Ngài và cùng với Ngài; công bố cả sự phục sinh của Chúa Giê-Xu lẫn của tôi, với tư cách một tín hữu, “Anh em bởi phép Báp-tem được chôn với Ngài, thì cũng được sống lại với Ngài bởi đức tin trong quyền phép Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại” (CoCl 2:12). Nhờ có Đức Thánh Linh ngự trong lòng, tôi đã thật sự sống lại, tuy tôi vẫn phải chờ cho đến khi Đấng Christ tái lâm để hoàn tất sự sống lại thuộc thể của mình. Trong khi chờ đợi, phép Báp-tem đòi hỏi tôi hằng ngày phải bày tỏ đời sống của Đấng Christ trong tôi, đồng thời xác nhận rằng với tôi sẽ có được một thân thể mới và tốt đẹp hơn.
NGÀY SANH
Thứ năm, phép Báp-tem của tôi là lễ sinh nhật của tôi; có thể nói đó là “ngày tái sanh” chính thức của tôi, vì sự tái sanh là kết quả của việc đồng sống lại với Đấng Christ. Như sinh nhật chính thức của Nữ hoàng (Anh) không phải là sinh nhật thật sự của nữ hoàng, cũng vậy, ngày mà một Cơ Đốc nhân được tái sanh khi người ấy nhận biết phải phó dâng đời mình cho Đấng mình biết rõ, thường thường không phải là ngày người ấy chịu phép Báp-tem (vì trẻ con rất khó hiểu biết được như vậy, còn người thành nhơn chắc đã xưng nhận là mình được tái sanh trước khi chịu phép Báp-tem). Thế nhưng, như mọi ngày lễ sinh nhật đều là dịp để vui hưởng điều tốt lành của đời sống, phép Báp-tem của tôi cũng phải dạy tôi về niềm vui không dứt là được sống về phương diện thuộc linh trong Đấng Christ.
Thứ sáu, phép Báp-tem của tôi là lễ tiếp nhận, đưa tôi vào gia đình gồm các con cái được Đức Chúa Trời thừa nhận, để tôi được tham dự sinh hoạt gia đình trong sự thờ phượng, làm chứng đạo, và làm mọi việc vì sự vinh hiển của Đức Chúa Cha. Vậy, phép Báp-tem của tôi phải đem lại cho tôi ý thức về sự hiệp một, và kêu gọi tôi thực sự giống với những người là muối thật của đất này - những người thuộc về Hội Thánh của Đức Chúa Trời, đặc biệt là của một chi nhánh của Hội Thánh ấy, là nơi tôi nhóm lại để thờ phượng mỗi Chúa nhật.
Thứ bảy, phép Báp-tem của tôi là một lễ sai phái, đưa tôi vào một cuộc đời tận hiến để phục vụ Đấng Christ và chính nghĩa của Ngài. Trên mộ chí của mình, John Berridge, vị lãnh tụ truyền giảng Phúc âm của thế kỷ thứ mười tám, tự gọi mình là “đứa con trai lưu lạc của Đấng Christ”. Đó là điều phép Báp-tem giao phó cho tôi.
Sau khi đã suy gẫm thấm nhuần các kết luận trên đây, tôi sẽ “cải tiến” được phép Báp-tem của mình - và với bạn cũng thế.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Dấu hiệu bề ngoài và thực tại bên trong: RoRm 2:17-29.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Người Thanh giáo muốn nói gì khi bảo người ta hãy “cải tiến” phép Báp-tem của mình?
2. Theo phương diện nào, phép Báp-tem là một “thánh lễ theo Phúc âm”? Người tham dự cần đích thân nhập cuộc như thế nào?
3. Làm thế nào để phép Báp-tem có thể vừa là an táng vừa là lễ sinh nhật? Phải chăng đây là một trường hợp mâu thuẫn về danh từ? Tại sao có hoặc tại sao không?

SINH NHẬT THỨ BA
Phép Báp-tem của tôi hướng về sinh nhật thứ ba của tôi. Đó là gì vậy? Ấy là ngày tôi bước vào cõi đời đời theo lịch riêng của Đức Chúa Trời, như hai sinh nhật trước của tôi, khi trái tim tôi bị bắt buộc phải ngừng đập.
Tôi không biết ngày ấy sẽ xảy ra như thế nào và khi nào mới xảy ra - không rõ sau khi tôi được báo trước hay chẳng được cảnh cáo chi cả, không rõ ngày ấy gần tôi lúc mười chín tuổi, hơn lúc tôi đã được chín mươi hay không, không rõ tại nhà riêng, trong bệnh viện hay ở ngoài đường, không rõ tôi có được hấp hối trong cảnh an bình, hay theo luật duy tâm tự nhiên như đã được mô tả trong Truyền đạo chương 12, hay bởi một chứng bệnh chết người nào đó, không rõ có phải là do sự bạo hành sai lầm của loài người, hay đến ngày Đấng Christ tái lâm để kết thúc thế gian này. tất cả những gì tôi biết, ấy là chắc như đinh đóng cột sẽ có một ngày, theo một cách nào đó, trái tim tôi sẽ ngừng đập, và điều mà thế gian gọi là ngày chết, thật ra, sẽ là ngày sanh của tôi - sinh nhật thứ ba của tôi theo thứ tự.
ĐỜI HẦU ĐẾN
Thế hai sinh nhật trước của tôi là gì? Số một, là lúc tôi ra khỏi lòng mẹ, để nhìn, để cảm nhận, để ăn uống tự nuôi mình và để la hét như là một cư dân của thế giới vật lý này; số hai là khi tôi từ sự tối tăm thuộc linh bước ra mười tám năm sau đó, để nhìn, để cảm nhận, để ăn uống tự nuôi mình và để reo vui về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời về tình yêu thương của Đấng Christ dành cho tôi. Bạn phải hiểu rằng khi nói “sinh nhật”, tôi không có ý nói về ngày tôi bắt đầu vui hưởng các ân tứ của Đức Chúa Trời mà tôi chưa hề tưởng tượng nổi trước đó. Đó chính là điều mà ngày trái tim tôi ngừng đập sẽ đem đến cho tôi. D.L.Moody nói: “Có một ngày nào đó, thiên hạ sẽ bảo với bạn rằng Moody chết rồi. Xin bạn đừng tin! Hôm đó, tôi sẽ ứng hầu trước ngôi; tôi sẽ còn sống động hơn những ngày tôi từng sống trước đó” vâng, và tôi cũng vậy.
Một bạn thân của tôi viết: “Ôi lạy Đức Chúa Trời, con rất tạ ơn Ngài vì đã yêu cầu Ngài điều khiển, kiểm soát đời sống con, làm người cầm quyền, làm Chủ, làm Chúa của con; con rất nhẹ nhõm khi biết rằng mình không được quyền quyết định để chọn ngày nào mình sẽ viết rằng: “chết”, “xong” đối với cuộc hành trình trên đất này; vì theo nhân tính, theo sự điên dại mà mình không hề hay biết, rất có thể là con sẽ chọn để chẳng bao chọn cả!...Vì thật ra sự chết là một cánh cửa dẫn tới điều nhiều hơn tốt hơn, không phải kém hơn xấu hơn, một sự tăng thêm chớ không giảm bớt, một sự thăng tiến chớ không phải là một sự suy thoái, một sự đổ đầy chớ không phải là một sự dốc cạn, một ngày sanh ra chớ không phải là một sự thức giấc!” Đúng vậy!
Chúng ta coi cái chết như một lối thoát, một lối đi từ vùng ánh sáng mình yêu thích để vào bóng tối mình ghét. Đối với người không tin Chúa là như thế, nhưng với các Cơ Đốc nhân qua đời là đường đi vào, là một lối đi dẫn tới ánh sáng chập choạng trên đời này (về phương diện thuộc linh mà nói, đời này chẳng có gì hơn thế) để đến với ánh sáng mặt trời chói rạng, hầu được nhìn thấy Đức Chúa Trời chúng ta. “Chúng được ơn trước ngôi Đức Chúa Trời, và ngày đêm hầu việc Ngài trong đền Ngài; còn Đấng ngồi trên ngôi sẽ che chở chúng dưới trại Ngài. Chúng sẽ không đói, không khát nữa; cũng không có mặt trời, hoặc cơn nắng gắt nào hại đến mình. Vì Chiên Con ở giữa ngôi sẽ chăn giữ và đưa chúng đến những suối nước sống; Đức Chúa Trời sẽ lau hết nước mắt nơi mắt chúng” (KhKh 7:15-17).
Thư Phaolô nói: “được đi ở với Đấng Christ, là đều tốt hơn” (Phi Pl 1:23). Khi Cơ Đốc nhân qua đời, là được thăng tiến chớ không phải là một bi kịch, cả khi sự qua đời ấy xảy ra rất sớm. Những người than khóc chỉ than khóc cho chính họ và cho những người còn ở lại mà thôi. Lúc nhân vật nữ Cơ Đốc nhân của John Bunyan qua đời, Thiện Tâm và Can Đảm - hai con người của đức tin biết rằng cái chết sắp đến, đã “đánh trống và hòa đàn, trổi giọng vui mừng”. George Macdonald nói: “Nếu chúng ta biết Đức Chúa Trời biểu sự chết thế nào, chúng ta sẽ vỗ tay”
DẤU HIỆU CỦA HI VỌNG
Làm sao tôi có thể biết chắc mọi điều đó? Thứ nhất: căn cứ theo Kinh Thánh; thứ hai, căn cứ vào phép Báp-tem của tôi. Dân Do thái sống trên đất liền, và trong Kinh Thánh, nước (sóng, vực sâu, giông bão) thường là biểu tượng của cảnh hỗn loạn và sự chết. “Nước lên ngập đầu tôi, tôi nói: Ta phải chết mất” (Cac Tl 3:54). Cũng vậy, trong phép Báp-tem, xuống nước có nghĩa là cùng chết với Chúa Giê-Xu về phương diện thuộc thể cũng như về phương diện đạo đức bằng sự ăn năn hối cải và từ bỏ mình, còn ra khỏi nước là dấu hiệu về sự cùng tiếp tục sống với Chúa Giê-Xu sau khi đã chết, trong sự phục sinh thuộc thể, vì là biểu hiện của sự tái sanh thuộc linh hiện tại.
Như vậy, nghi lễ Báp-tem là một lời hứa do Đức Chúa Trời chủ động ban ra, dạy rằng sự chết không hề chấm dứt đời sống hay niềm vui của tôi, vì song song với bản án tử hình là một ân tứ mới ban sự sống; và sự kiện tôi hoàn toàn thụ động khi vị đại sứ của Đức Chúa Trời làm phép Báp-tem cho tôi dạy tôi có thể và cần phải trông cậy nơi ân điển chủ động của Đức Chúa Trời, nhờ đó đưa tôi đến với Ngài. Trong phép Báp-tem của tôi, Đức Chúa Trời mở rộng lời hứa của Ngài với tôi cho đến lúc tôi nằm trên giường hấp hối và sau đó nữa, khi Chúa Giê-Xu đem tôi đến với Ngài (GiGa 14:1-3 17:24). Lúc Browning viết rằng: “điều tốt nhất vẫn chưa đến”, ông đã nói đúng. Tôi vẫn còn chờ sinh nhật thứ ba của mình.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Được tiếp rước về nhà: GiGa 14:1-4 LuLc 23:39-43 IPhi 1Pr 1:1-9 IIPhi 2Pr 1:1-11
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bạn có đồng ý rằng chết là một ngày sanh chớ không phải là sự thức giấc không? Xin giải thích điều bạn muốn nói.
2. Viễn ảnh về cái chết khác nhau như thế nào đối với Cơ Đốc nhân và người không tin Chúa?
3. Phép Báp-tem của chúng ta nói gì về sự chết của mình?


BÀI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA
LỜI TỰA
Cấu trúc Cơ-đốc giáo có ba công thức giá trị: Bài Tín Điều, Mươi Điều Răn, và Bài Cầu Nguyện của Chúa, mỗi công thức trình bày tóm tắt niềm tin, cách ăn nết ở của Cơ-đốc nhân và cách người ấy tương giao với Đức Chúa Trời.
Riêng Bài Cầu Nguyện của Chúa là một kỳ công cô đọng diệu kỳ và đầy đủ ý nghĩa. Đó là toát yếu của Phúc Âm (Tertullian), một nền thần học (Thomas Watson), một bộ luật lệ về chủ đích cũng như về chìa khóa cho toàn thể sinh hoạt trong đời sống. Chẳng có ở đâu khác vấn đề sinh hoạt của Cơ-đốc nhân được đề cập rõ ràng hơn ở đây.
Sách Giáo lý Cầu Nguyện của Anh quốc giáo cũng như nhiều sách giáo lý khác của Giáo hội Cải cách, đều tập trung vào ba phần tóm tắt này. Về Bài Cầu Nguyện của Chúa, sách ấy viết:
Câu hỏi: Trong bài cầu nguyện này, bạn muốn được Đức Chúa Trời ban cho mình điều gì?
Trả lời: Tôi muốn Đức Chúa Trời là Cha chúng tôi ở trên trời, Đấng ban phát tất cả những điều tốt lành, hãy ban cho tôi và cho mọi người ân điển Ngài, để chúng ta có thể thờ phượng, phục vụ, vâng lời như việc chúng ta đáng phải làm. Tôi cũng xin Đức Chúa Trời ban xuống cho chúng ta tất cả những gì cần thiết cả cho phần hồn lẫn phần xác; xin Ngài vui lòng thương xót chúng ta, tha tội cho chúng ta; và xin Ngài vui lòng giải cứu và bảo vệ chúng ta khỏi mọi nguy cơ cả thuộc linh lẫn thuộc thể; xin Ngài gìn giữ chúng ta khỏi mọi tội lỗi và điều ác; khỏi các kẻ thù chúng ta là ma quỉ, và khỏi sự chết đời đời. và tôi tin rằng lòng nhơn từ thương xót và thánh thiện của Ngài sẽ làm như vậy, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta. Do đó tôi phải nói A-men.
Những phần nghiên cứu sau đây sẽ vạch ra những gì sách Giáo lý ấy muốn đề cập.

KHI CÁC NGƯƠI CẦU NGUYỆN
Với nhiều người ngày nay, cầu nguyện với Đức Chúa Trời là cả một vấn đề. Có người vẫn cầu nguyện mà chẳng biết tại sao mình cầu nguyện; có người đánh đổi sự cầu nguyện bằng cách trầm tư mặc tưởng, hay suy gẫm về những điều gì siêu việt, cao xa; có lẽ phần đông đều đọc cách máy móc cả một bài cầu kinh. Tại sao lại như vậy? Câu trả lời dường như hết sức rõ ràng. Sở dĩ người ta nhận thấy cầu nguyện là cả một vấn đề, bởi vì tư tưởng của họ về Đức Chúa Trời rất lộn xộn. Nếu bạn không chắc có Đức Chúa Trời hay không, Ngài có phải là Đấng hữu ngã (personal), thánh thiện, cai trị kiểm soát mọi sự, có quan tâm chú ý đến từng người bình thường như tôi với bạn hay không, và bạn sẽ bị buộc phải kết luận rằng cầu nguyện là hoàn toàn vô ích, chớ chưa nói là vô vị, vô nghĩa; vì thế bạn sẽ chẳng bao giờ cầu nguyện.
Nhưng nếu bạn tin như các Cơ-đốc nhân vẫn tin rằng Chúa Giê-xu là hình ảnh của Đức Chúa Trời - hay nói khác đi là Đức Chúa Trời giống hệt Đức Chúa Giê-xu về bản tánh - thì bạn sẽ không còn những nghi ngờ như vậy, và bạn sẽ thừa nhận rằng với chúng ta, trò chuyện với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con bằng sự cầu nguyện cũng tự nhiên như Chúa Giê-xu từng trò chuyện với Cha Ngài trên trời, hay như các môn đồ từng trò chuyện với Thầy mình trong những ngày Ngài thi hành chức vụ trên đất này vậy.
ĐỐI THOẠI
Trò chuyện với cha mẹ hay bạn bè thân thiết, khôn ngoan mà chúng ta yêu mến, kính trọng, sẵn sàng giúp đỡ chúng ta bằng lời khuyên lẫn hành động không bị chúng ta cho là vô bổ, nhạt nhẽo; và chúng ta sẽ vui vẻ dành nhiều thì giờ với họ - có lẽ là dành cả thì giờ để ghi giấy, viết thơ căn dặn họ nữa - vì chúng ta đánh giá họ rất cao, và cũng được ích lợi nhờ họ nữa. Đó chính là điều chúng ta cần nghĩ đến trong những lúc tương giao với Đức Chúa Trời bằng sự cầu nguyện. Khi vị thánh đồ của Hội Giám lý là Billy Bray nói - như ông vẫn thường nói “Tôi phải thưa với Cha về chuyện này”, là ông ám chỉ sự cầu nguyện vậy.
Có thật khi chúng ta cầu nguyện Đức Chúa Trời nói chuyện này chuyện nọ với chúng ta không? Thật như vậy. Có thể chúng ta không nghe được tiếng Ngài cũng không cảm nhận cách mạnh mẽ một thông điệp được gởi đến cho chúng ta (và chúng ta phải khôn ngoan để biết nghi ngờ khi gặp kinh nghiệm như thế); nhưng trong khi phân tích và trình bày các vấn đề của chúng ta trước ngôi Đức Chúa Trời, thưa với Ngài điều chúng ta cần, suy nghĩ về đường lối mình căn cứ trên những khúc sách, những nguyên tắc của Lời thành văn của Đức Chúa Trời liên hệ đến vấn đề đang gặp, chắc chắn chúng ta sẽ có thể kết tinh trong lòng việc Đức Chúa Trời đang nhìn vào chúng ta, vào những lời cầu nguyện của chúng ta như thế nào, cũng như ý chỉ của Ngài dành cho chúng ta và những người khác ra sao. Nếu bạn hỏi: “Tại sao việc này, việc nọ xảy ra?” rất có thể sẽ chẳng có tia sáng nào sẽ đến với bạn cả, vì “những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta” (PhuDnl 29:29); nhưng nếu bạn hỏi: “Ngay bây giờ và tại đây tôi phải làm gì để phục vụ và tôn vinh Đức Chúa Trời?”, bao giờ cũng có câu trả lời cho bạn.
ĐƯỢC TẠO DỰNG ĐỂ CẦU NGUYỆN
Thật đúng khi bảo rằng Đức Chúa Trời dựng nên chúng ta để chúng ta cầu nguyện; cầu nguyện (không phải là hoạt động dễ dàng nhất, nhưng) là hoạt động tự nhiên nhất chúng ta phải dấn thân; sự cầu nguyện là cây thước để Đức Chúa Trời đo một người thiết tưởng không phải là quá đáng. Một bậc thánh như Murray McCheyna từng nói: “Con người bày tỏ rõ nhất khi ở một mình trước mặt Đức Chúa Trời”.
Có lẽ các môn đồ của Chúa Giê-xu gặp thất bại trong vấn đề đó, khi họ sốt ruột yêu cầu Chúa (có bao giờ bạn nghe thấy tiếng vang của lời yêu cầu này không?): “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện” (LuLc 7:1). Chắc Chúa Giê-xu rất vui mừng khi được yêu cầu như vậy. Tuy nhiên, với cương vị một bậc thầy tài ba, Ngài đã nén được xúc động để đưa ra một câu trả lời hết sức tự nhiên, hợp tình hợp cảnh: “Khi các ngươi cầu nguyện, hãy nói...” - và lần thứ hai trong chức vụ công khai của mình, Ngài đã đưa phần hình thức gồm những lời lẽ mà chúng ta gọi là Bài Cầu Nguyện của Chúa (LuLc 11:2-4 đối chiếu 6:9-13).
“Hãy nói...” Phải chăng Chúa Giê-xu muốn họ lặp lại như con vẹt những lời ấy? Không, nhưng họ phải quan tâm chú ý để nói ra những lời có ý nghĩa. Chúng ta có thể nói: “Hãy nói...” có nghĩa là: “Hãy ngụ ý khi nói, hãy nói cách có ý thức”. Bài cầu nguyện này là khuôn mẫu cho tất cả những bài cầu nguyện của Cơ-đốc nhân: Chúa Giê-xu muốn dạy rằng lời cầu nguyện sẽ được nhậm, và chỉ được nhậm, khi thái độ, tư tưởng và ước muốn được bộc lộ, được diễn tả phù hợp với khuôn mẫu này. Nghĩa là tất cả những lời cầu nguyện của chúng ta phải là Bài Cầu Nguyện của Chúa, hoặc về nội dung hoặc về hình thức.
HỌC TẬP CẦU NGUYỆN
“Kinh nghiệm là điều chẳng ai dạy được cho ai!” Câu này được viết trong một sách dạy nghề cho thanh niên, nhưng đó là chân lý sâu sắc về sự cầu nguyện cũng như về tài năng để được hưởng lương cao. Cầu nguyện cũng như ca hát, là điều mà bạn phải học, không phải bằng cách đọc nhiều sách (kể cả quyển sách này nữa), nhưng bằng cách thực hành, và điều hết sức tự nhiên là trong loạt hoạt động như vậy, bạn có thể tự phát triển tài năng của mình mà chẳng cần phải đọc một quyển sách nào cả. Thế nhưng, nếu việc luyện giọng giúp bạn hát càng hay hơn, thì kinh nghiệm và lời khuyên của người khác có thể giúp bạn biết cầu nguyện nhằm vào một chủ đích tốt hơn. Kinh Thánh có những gương mẫu cầu nguyện: có 150 mẫu mực về sự cảm tạ, nài xin, và trường hợp biệt riêng thì giờ với Chúa trong sách Thi thiên, và còn nhiều gương về sự cầu nguyện đích thực cũng đã được ghi lại, cùng với rất nhiều lời dạy dỗ về đề tài ấy.
Chắc chắn chúng ta không thể hài lòng với việc chỉ lặp lại như con vẹt những bài cầu nguyện của người khác, Đức Chúa Trời cũng không hài lòng như vậy (vì bậc làm cha mẹ vui sao được khi con cái mình chỉ đối đáp với mình bằng những câu trích dẫn, do đó, giới hạn việc trò chuyện trong phạm vi đọc thuộc lòng các tình cảm của kẻ khác?). Nhưng nếu cách trình diễn một bản nhạc của một danh tài dương cầm có thể giúp cho một nhạc sĩ mầm non thấy mình có thể chơi bản nhạc ấy hay hơn (có lẽ là không phải hoàn toàn theo như cách chơi đàn của người kia) chúng ta cũng được giúp đỡ để tìm ra cách cầu nguyện của riêng mình qua việc chứng kiến người khác cầu nguyện như thế nào; và dĩ nhiên là bằng cách cùng cầu nguyện với họ. Trên hết mọi sự, chúng ta có Bài Cầu Nguyện của Chúa hướng dẫn mình.
Như việc phân tích ánh sáng đòi hỏi phải đối chiếu với một 'phổ hệ' gồm bảy hoạt động phân biệt: đến gần Đức Chúa Trời bằng sự tôn thờ và lòng tin cậy; thừa nhận công trình và giá trị của Ngài bằng sự cảm tạ và thờ phượng, công nhận tội lỗi mình và cầu xin được tha thứ; cầu xin Chúa đáp ứng các nhu cầu của mình và của người khác; lý luận với Đức Chúa Trời để xin Ngài ban phước cho, như Gia-cốp từng vật lộn với Ngài trong Sáng thế ký chương 32 (Đức Chúa Trời rất thích chúng ta tranh luận với Ngài); chấp nhận hoàn cảnh Đức Chúa Trời đặt mình vào đó; và trung tín nương cậy Đức Chúa Trời. Bảy hoạt động trên đây nhập chung lại, cấu thành sự cầu nguyện theo Kinh Thánh, mà Bài Cầu Nguyện của Chúa thể hiện tất cả.
Cho nên Bài Cầu Nguyện của Chúa cần được đưa vào các buổi nhóm thờ phượng để hướng dẫn và thúc giục chúng ta nên cầu nguyện không thôi. Cầu nguyện theo những lời lẽ trong đó là phương pháp chắc chắn nhất giữ những lời cầu nguyện chúng ta nằm trong ý chỉ của Đức Chúa Trời; cầu nguyện theo thứ tự trước sau và từ đầu chí cuối như Bài Cầu Nguyện của Chúa, vừa cầu nguyện vừa mở rộng từng vế từng câu, là phương pháp chắc chắn nhất để thêm chất liệu cho sự cầu nguyện khi bạn cảm thấy mình bị cạn kiệt, hao mòn. Chúng ta chẳng bao giờ vượt khỏi bài cầu nguyện ấy được, vì chẳng những đó là bài học đầu tiên Chúa dạy chúng ta về sự cầu nguyện, nhưng nó còn nhiều bài học khác nữa. Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Tính cách tự nhiên của sự cầu nguyện: Thi thiên 27; 139
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Quan điểm của một người đối với Đức Chúa Trời ảnh hưởng đến quan điểm về sự cầu nguyện như thế nào?
2. Theo ý bạn, tại sao tác giả lại gọi sự cầu nguyện là 'hoạt động tự nhiên nhất chúng ta phải dấn thân'?
3. Theo ý nghĩa nào, tất cả mọi lời cầu nguyện đều phản ảnh Bài Cầu Nguyện của Chúa?

VẬY HÃY CẦU NGUYỆN NHƯ VẦY
“Vậy, các ngươi hãy cầu nguyện như vầy” Chúa Giê-xu đã giới thiệu Bài Cầu Nguyện của Ngài trong Bài Giảng Trên Núi như thế đó (Mat Mt 6:9-13). Rõ ràng Ngài ban bài cầu nguyện ấy làm mẫu mực cho tư tưởng chúng ta khi cầu nguyện, cũng như một hình thức đồng bộ về những lời lẽ cần được nói lên. Phần mẫu mực ấy chứa đựng những gì? Đây là cái nhìn bao quát. Những lời dâng lên cho Đức Chúa Trời ở phần mở đầu bài cầu nguyện rất ý nghĩa. Điều này chắc phải làm các môn đệ của Chúa vô cùng kinh ngạc, vì trong Do-thái giáo, gọi Đức Chúa Trời bằng “Cha” là điều người ta chẳng bao giờ làm. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu lại truyền dạy chúng ta phải làm như vậy - nói khác đi, hãy đến ra mắt Đức Chúa Trời trên nền tảng chúng ta là con cái trong nhà, Ngài nhìn vào chúng ta bằng tình thương yêu của một người cha. Rồi chúng ta kết hợp vào đó tư tưởng Cha chúng ta đang 'ở trên trời' - nói khác đi, Ngài là Đức Chúa Trời tự hữu hằng hữu và đang cầm quyền tể trị, là Đức Chúa Trời vừa ngự tại thiên đàng, vừa đảm trách mọi việc trên thiên đàng. Một mặt bày tỏ tình thương yêu của một người cha và mặt khác là tính cách vĩ đại siêu việt của Ngài, hai đức tính ấy của Đức Chúa Trời là nền tảng để đặt toàn thể những lời cầu nguyện của chúng ta.
Rồi tới ba lời khẩn xin xung quanh Đức Chúa Trời, đồng thanh nói lên thái độ Chúa Giê-xu từng đòi hỏi và được Ngài gọi là “điều răn thứ nhất và lớn hơn hết: ngươi phải hết lòng... yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời” (Mat Mt 22:38,37)
Lần khẩn xin đầu tiên là danh Cha được thánh. “Danh” trong Kinh Thánh có nghĩa là 'con người' (person), và thánh hóa danh Đức Chúa Trời có nghĩa là thừa nhận Đức Chúa Trời là thánh bằng cách tôn trọng tất cả những gì Ngài mặc khải, và đáp lại bằng sự thờ phượng và vâng lời.
Lời khẩn xin thứ hai là nước Cha mau đến. 'Nước' Đức Chúa Trời có nghĩa là quyền tể trị sự cứu rỗi của Ngài sớm được phô bày công khai, và lời cầu xin nước Ngài mau đến là lời 'kêu nài' xin cả thế gian được sớm nhìn thấy và đầu phục quyền làm chủ tể của Ngài, sớm được kinh nghiệm ân điển cứu rỗi của Ngài khi Chúa tái lâm và mọi sự đều được làm nên mới.
Lời khẩn xin thứ ba, là ý Cha được nên - nghĩa là mọi mạng lịnh và chủ đích của Ngài đều ứng nghiệm, thành tựu trọn vẹn.
ĐỨC CHÚA TRỜI TRƯỚC NHẤT, RỒI MỚI TỚI CON NGƯỜI
Tiếp theo là ba lời khẩn xin xung quanh con người. Bằng việc đặt con người đằng sau những đòi hỏi phải tôn cao Đức Chúa Trời, bài cầu nguyện nhắc nhở chúng ta phải cầu xin để các nhu cầu riêng của mình được đáp ứng đó là một cách để tôn vinh Cha chúng ta, chớ không với tinh thần cố ép Đức Chúa Trời phải chìu theo ý riêng của chúng ta. Chúng ta được dạy phải xin bánh ăn, xin được tha tội, và được bảo vệ để khỏi bị ma quỉ cám dỗ (từ ngữ 'ác' có nghĩa là 'kẻ ác'). Về nguyên tắc ở đây bao gồm mọi nhu cầu vật chất được đáp ứng; mọi nhu cầu thuộc linh được tái tạo và bồi bổ; và mọi nhu cầu được hướng dẫn, trợ giúp nữa.
Lời cảm tạ kết thúc dành nước (nghĩa là mừng đón Ngài lên ngôi), quyền (nghĩa là chúng ta tôn thờ Ngài với tư cách Đức Chúa Trời có quyền thực hiện tất cả những gì chúng ta cầu xin) và vinh hiển (nghĩa là tuyên bố rằng: 'chúng con ca ngợi tán tụng Ngài là Đức Chúa Trời ngay tại đây và bây giờ) cho Đức Chúa Trời. Tuy từ lâu, các cổ bản cho thấy rõ rất có thể đây không phải là những lời lẽ do chính môi miệng Chúa Cứu Thế thốt ra - nhưng cũng chẳng có ai dám phủ nhận việc chúng rất xứng hợp với Ngài.
ĐỨC CHÚA TRỜI HƯỚNG DẪN CẦU NGUYỆN
Khi chúng ta kể lể với cha mẹ và bạn bè thân thiết về những nỗi lo âu và các vấn đề của mình để mong họ giúp đỡ, họ thường giành quyền hướng dẫn cầu nguyện nhằm tạo nên một điều gì có ý nghĩa mà tâm trí bối rối của chúng ta không chịu chấp nhận. Mỗi người chúng ta chắc đều trải qua trường hợp sau khi dốc đổ như thác tất cả những chuyện rắc rối của mình lại được nghe những lời lẽ chậm rãi bảo rằng: 'Chờ một chút đã nào; hãy làm cho rõ sự việc đã. Hãy nói lại cho tôi rõ việc này, việc nọ... Sao? Bạn cảm thấy thế nào?... Thế thì vấn đề là gì, ở đâu?...'
Chúng ta cần xét xem Bài Cầu Nguyện của Chúa đã cho chúng ta những câu trả lời mẫu như thế nào cho một loạt câu hỏi Đức Chúa Trời dùng để dạy dỗ khi trò chuyện với chúng ta. Chẳng hạn như: 'Ngươi cho rằng ta là ai, và ta với ngươi thế nào?' (Cha chúng tôi ở trên trời). 'Sự việc đã là như vậy; ngươi còn muốn gì hơn nữa?' (Danh Ngài được thánh; nước Ngài được đến; ý Ngài đã được biết rõ và được tuân thủ). 'Vậy bây giờ ngươi muốn gì để việc ấy được thành tựu?' (Xin cho, xin tha tội, xin bảo vệ). Rồi đến 'câu trả lời kết thúc' là câu hỏi: 'Tại sao ngươi lại cả gan và tin quyết để cầu xin ta những việc như thế?' (Vì chúng con biết Cha có thể làm mọi điều đó, và một khi Cha đã làm, Cha sẽ được tôn vinh). Về phương diện thuộc linh, loạt câu hỏi trên rất ích lợi cho chúng ta.
Nhiều khi trong lúc cầu nguyện chúng ta cảm thấy như chẳng có ai nghe mình cả, và chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng những cảm giác, cảm nghĩ của mình là sự thật. Điều cuối cùng đánh tan sự cám dỗ liên hệ đến Đức Chúa Trời là một nhận thức mới mẻ (chắc chắn là do ân tứ của Đức Thánh Linh) rằng chính Đức Chúa Trời đã thật sự đặt những câu hỏi theo như cách vừa được mô tả cho chúng ta, để đòi hỏi chúng ta thành thật nói ra những suy nghĩ của chúng ta về Ngài, muốn Ngài làm gì, và tại sao lại muốn Ngài làm như vậy.
Về phần dạy dỗ, lời Cầu Nguyện của Chúa là như vậy. Suy nghĩ cũng giống như bức tranh của một đứa trẻ vẽ một vật bí mật nào đó. Thoạt nhìn, bạn chẳng thấy vật đó ở đâu cả; nhưng rồi tự nó đập vào mắt bạn, và mỗi lần sau đó bạn nhìn vào bức tranh, dường như nó nhảy xổ đến trước mặt bạn vậy. Trong trường hợp ở đây vật bí mật là Đức Chúa Trời, Đấng đang đặt những câu hỏi trong từng vế, từng câu, Bài Cầu Nguyện của Chúa là toàn bộ những câu trả lời thích ứng. Và chỉ khi nào bạn thấy được điều này, bạn mới sử dụng được bài cầu nguyện mẫu mực này như cách mà Tác giả và vị Giáo sư đưa ra và muốn chúng ta sử dụng.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Một bài cầu nguyện mẫu: Giăng chương 17
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Chúng ta phải đứng trên cơ sở nào để ra mắt Đức Chúa Trời? Theo bạn nghĩ, bản thân bạn có thể thực hiện được việc ra mắt Ngài như vậy hay không? Hãy nêu ra các lý do để bạn nói được hay không.
2. Bài Cầu Nguyện của Chúa có liên hệ với việc chúng ta phải hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời?
3. Bài Cầu Nguyện của Chúa cần thiết như thế nào trong việc sửa đổi những lời cầu nguyện để chúng ta có thể dâng lên cho Chúa? Xin cho thí dụ minh họa.

CHA CHÚNG TÔI
Bài cầu nguyện của Chúa dùng lời lẽ trong gia đình: Chúa Giê-xu dạy chúng ta gọi Đức Chúa Trời là Cha chúng tôi như chính Ngài vậy - lời cầu nguyện của Ngài tại vườn Ghết-sê-ma-nê chẳng hạn, hay lời cầu nguyện với cương vị Thầy Tế Lễ Thượng phẩm của Ngài trong Giăng chương 17, tiếng “Cha” xuất hiện đến sáu lần, Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra. Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời theo bản tính, và là Ngôi Hai trong Ba Ngôi đời đời, còn chúng ta chỉ là loài thọ tạo của Đưc Chúa Trời. Vậy, bởi quyền nào chúng ta dám gọi Ngài là Cha? Khi Chúa Giê-xu dạy cách gọi Đức Chúa Trời như vậy, phải chăng Ngài muốn nói đến địa vị thọ tạo như đã có, bao gồm cả địa vị làm con? Hay là thế nào?
ĐƯỢC THỪA NHẬN
Vấn đề ở đây thật rõ ràng. Như chúng ta thấy trong phần nghiên cứu trước đây, điều Chúa Giê-xu muốn nói không phải tất cả mọi người đều là con cái Đức Chúa Trời theo bản tính nhưng bởi ân điển, các môn đệ theo Ngài mới được thừa nhận vào gia đình của Đức Chúa Trời. “Hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời” (GiGa 1:12). Phao-lô nhấn mạnh đó chỉ là chủ đích của sự nhập thể: “Đức Chúa Trời sai Con Ngài... để chúng ta được nhận làm con nuôi (con thừa nhận) Ngài” (GaGl 4:4,5). Chỉ có Cơ-đốc nhân mới cầu nguyện với Đức Chúa Trời như với Cha mình mà thôi.
Điều này giải được một câu đố. Ở những chỗ khác, Chúa Giê-xu nhấn mạnh rằng các môn đệ phải nhân danh Ngài mà cầu nguyện, phải cầu nguyện với chính Ngài đứng trung gian, nghĩa là nhờ Ngài làm đường liên lạc để đến với Đức Chúa Cha. Xin xem GiGa 14:6,13 15:16 16:2-26. Tại sao những câu đó, không giống trong bài cầu nguyện kiểu mẫu này? Thật ra, vấn đề nằm ngay ở đây; “Cha” đã đầy đủ ý nghĩa. Chỉ những ai nhìn vào Chúa Giê-xu như Đấng Trung Bảo và là Đấng gánh hết tội lỗi, rồi nhờ cậy Ngài làm trung gian để đến với Đức Chúa Trời, mới được quyền gọi Đức Chúa Trời là Cha, còn mình là các con Ngài.
CON (TRAI) VÀ NGƯỜI KẾ TỰ
Nếu muốn cầu nguyện và sống xứng đáng, chúng ta cần nắm vững những điều hàm ý trong danh vị làm Cha đầy ân điển của Đức Chúa Trời.
Thứ nhất, với tư cách con thừa nhận, chúng ta được yêu thương chẳng kém gì Đấng Đức Chúa Trời từng gọi là “Con yêu dấu” Ngài (Mat Mt 3:17 17:5). Trong một số gia đình có cả con ruột (tự nhiên) và con thừa nhận, thì đứa con trước được cưng chìu hơn đứa con sau, nhưng không hề có chuyện sai sót như vậy làm hỏng địa vị làm Cha của Đức Chúa Trời.
Đây là những tin tức tốt lành nhất cho người nào nghe. Phao-lô từng tuyên bố đắc thắng chẳng có gì trong cõi thọ tạo này ”...có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-xu Christ” (RoRm 8:39). Nghĩa là Đức Chúa Trời chẳng bao giờ quên, hay ngừng quan tâm chăm sóc chúng ta, và Ngài mãi mãi vẫn là người Cha cưu mang chúng ta, cả khi chúng ta có hành động như đứa con trai hoang đàng (tai hại thay, chúng ta vẫn thỉnh thoảng hành động như vậy).
Sách Cầu Nguyện viết 'Ngài luôn luôn sẵn sàng lắng nghe hơn là chúng ta sẵn sàng cầu nguyện ' và 'muốn ban cho nhiều hơn cả điều chúng ta mong muốn hay xứng đáng nhận lãnh'. Chúa phán: “Nếu các ngươi vốn là xấu, còn biết cho con cái mình các vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban các vật tốt cho những người cầu xin Ngài sao? (Mat Mt 7:11 đối chiếu LuLc 11:13 'Đức Thánh Linh' thay vì 'các vật tốt' và chức vụ nâng đỡ của Đức Thánh Linh chắn chắn là những điều tốt mà Chúa Giê-xu nghĩ đến). Biết rõ chân lý Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta bằng tình yêu thương của cha dành cho con, giúp chúng ta có lòng tin quyết vô hạn chẳng những vào sự cầu nguyện mà cho cả đời sống chúng ta.
Thứ hai chúng ta là người kế tự của Đức Chúa Trời. Đời xưa, người ta nuôi con thừa nhận để làm con thừa kế, Cơ-đốc nhân là người đồng kế tự với Chúa Cứu Thế để thừa hưởng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (RoRm 8:17). “Bây giờ chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời... khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài” (IGi1Ga 3:2) “Hết thảy mọi sự đều thuộc về anh em” nghĩa là tất cả đều hiệp lại để càng làm ích lợi cho anh em trong hiện tại, và sẽ làm vinh càng hơn cho anh em trong đời hầu đến bởi vì “anh em thuộc về Chúa Cứu Thế” (ICo1Cr 3:21-23 RoRm 8:28-30). Lãnh hội được điều này là tự biết mình giàu có và hưởng nhiều đặc quyền vượt xa bất kỳ quốc vương hay nhà triệu phú nào.
Thứ ba, chúng ta có Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong mình. Khi mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời được thay đổi (được làm con thừa nhận), những ước muốn, quan điểm và thái độ của chúng ta cũng thay đổi theo. Kinh Thánh gọi là sự tái sanh hay sanh lại cách mới. Những ai tin nơi 'danh' Chúa Giê-xu đều được Đức Chúa Trời 'sanh ra' (GiGa 1:2 và tt) hay đúng hơn là được 'sanh bởi Thánh Linh' (GiGa 3:6 xem mấy câu GiGa 3:3-8). Phao-lô nói: “Vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng: A-ba! Cha!' (GaGl 4:6). Và khi chúng ta lâm hoạn nạn (điều này vẫn xảy đến cho tất cả mọi người chúng ta), khi cảm thấy bế tắc, ngã lòng, thấy khó thốt lên nổi lời cầu nguyện vì 'không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải lẽ', chúng ta muốn cầu nguyện mà không thể làm được, chính sự đau buồn vì chúng ta đã không làm được điều đó, minh chứng chính Đức Thánh Linh sẽ cầu thay hữu hiệu trong lòng chúng ta (RoRm 8:26 và tt); đây là điều vừa trấn an vừa là một huyền nhiệm đối với chúng ta, vừa khiến chúng ta phấn khởi cũng như vô cùng kinh ngạc.
Thứ tư, chúng ta tôn vinh Cha chúng ta bằng cách phục vụ các lợi ích của Ngài. Trọng tâm của những gì chúng ta muốn tập trung chú ý, phải là 'danh Ngài... nước Ngài... ý Ngài” và chúng ta phải như những đứa con ngoan trong các gia đình nề nếp tức là sẵn sàng vâng theo những lời giáo huấn, khuyên dạy.
Thứ năm, chúng ta yêu thương anh em mình bằng cách luôn luôn quan tâm chăm sóc và cầu nguyện cho họ. Bài Cầu Nguyện của Chúa dạy chúng ta cầu thay cho các nhu cầu trong gia đình: “Cha chúng tôi... Xin cho chúng tôi... Xin tha chúng tôi... Xin dẫn dắt chúng tôi... Xin cứu chúng tôi” “Chúng tôi” có nghĩa nhiều hơn là chỉ một mình tôi mà thôi! Đối với con cái Đức Chúa Trời, cầu nguyện không phải là việc 'một kẻ cô đơn chạy đến với Đấng đơn độc', nhưng quan tâm đến việc gây dựng cả một gia đình.
Cho nên chúng ta phải bày tỏ đức tin vào Chúa Cứu Thế, lòng tin quyết vào Đức Chúa Trời, niềm vui trong Đức Thánh Linh, sống có mục đích và biết vâng lời, quan tâm đến các Cơ-đốc nhân bạn khi chúng ta đến với Đức Chúa Trời và gọi Ngài là “Cha”. Làm như vậy, chúng ta mới đáp ứng được ý muốn của Chúa Giê-xu khi Ngài dạy chúng ta phần hình thức của sự cầu nguyện này.
SỰ CA NGỢI TÁN TỤNG VÀ CẢM TẠ
Chúng ta gọi Đức Chúa Trời là Cha ở phần đầu bài cầu nguyện mẫu này, tức là có sự nhận thức mới mẻ về mối liên hệ gia đình - địa vị làm cha của Ngài, địa vị làm con bởi ân điển của chúng ta nên đó cũng phải là điều chúng ta thực hành trước nhất khi cầu nguyện. Tất cả những lời cầu nguyện theo đúng tinh thần đều phải bắt đầu bằng việc hướng về Đức Chúa Trời và tự nguyện dâng lên tấm lòng của mình để tạ ơn và tôn thờ, đó chính là điều mà “Cha” kêu gọi chúng ta phải làm. Lời cầu nguyện của Cơ-đốc nhân phải có thật nhiều lời tạ ơn Đức Chúa Trờivề ân điển Ngài, ca ngợi tán tụng Đức Chúa Trời vì lòng yêu thương như người cha của Ngài, và vui vì địa vị làm con và được kế tự của chúng ta; và nếu chúng ta vẫn chưa làm được những điều đó, chúng ta vẫn nên cầu nguyện nhằm mục đích tốt đó. Phải làm trước phải làm trước!
Cho nên, tôi xin hỏi: Chúng ta có luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Trời và gọi Ngài bằng Cha không? Và chúng ta có luôn luôn ca ngợi tán tụng Ngài mỗi khi cầu nguyện không?
NGHIÊN CƯứ THÊM KINH THÁNH
Địa vị làm cha của Đức Chúa Trời: RoRm 8:12-15 Mat Mt 6:1-16
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Điều gì khiến chúng ta được quyền gọi Đức Chúa Trời là Cha chúng ta? Tại sao chỉ có các Cơ-đốc nhân mới được phép làm như vậy?
2. Nhận thức được địa vị làm con Đức Chúa Trời, khi cầu nguyện có tầm quan trọng như thế nào?
3. Tại sao tác giả nói: “Bài Cầu Nguyện của Chúa dạy chúng ta cầu thay cho các nhu cầu trong gia đình”?

Ở TRÊN TRỜI
Sinh lực của sự cầu nguyện phần lớn đặt trên khải tượng về Đức Chúa Trời, đều thúc giục chúng ta cầu nguyện. Các tư tưởng tăm tối về Đức Chúa Trời khiến việc cầu nguyện trở nên chán ngắt (Phải chăng đó cũng là vấn đề của bạn?). Đã có một quyển sách xuất bản nhan đề Những Bài Cầu Nguyện Vĩ Đại trong Kinh Thánh (Great Prayers of the Bible). Dấu hiệu của những bài cầu nguyện vĩ đại trong Kinh Thánh lẫn bất cứ nơi nào khác là bộc lộ một ý thức vĩ đại về Đức Chúa Trời.
Lời khẩn cầu Đức Chúa Trời trong Bài Cầu Nguyện của Chúa dẫn chúng ta đến ý thức như vậy. “Cha chúng tôi” đề cập phẩm tính và chiều sâu tình yêu thương Đức Chúa Trời dành cho những người thuộc về Chúa Giê-xu là mối quan tâm chăm sóc của người cha trọn vẹn có thể bày tỏ. “Ở trên trời” đặt trước mặt chúng ta sự kiện Cha trên trời của chúng ta vĩ đại - đời đời, vô hạn, toàn năng; như thế, khiến chúng ta nhận thức được tình yêu thương bất biến, vô giới hạn của Đức Chúa Trời, không gì lay chuyển được và khả năng ban cho chúng ta các nhu cầu vượt xa những điều chúng ta cầu xin. Mỗi chúng ta cầu nguyện với những tư tưởng như thế, sẽ không bao giờ khô khan, khó khăn được.
TRỜI
Vì Đức Chúa Trời là thần, “trời” ở đây không thể có nghĩa chỗ ở của Đức Chúa Trời là một nơi xa xăm nào đó. Người Hi-lạp quan niệm các thần sống phần lớn thời gian cách xa trái đất, trong cõi thiên giới gọi là Bahamas, nhưng Đức Chúa Trời của Kinh Thánh không phải như vậy. Chắc chắn “thiên đàng” là nơi trú ngụ của các thánh đồ và các thiên sứ phải được hiểu là một nơi chốn nào đó, bởi vì các thánh đồ và thiên sứ là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, hiện hữu trong không gian và thời gian; nhưng khi chúng ta nói Đấng Tạo Hóa “ở trên trời”, ý muốn nói Ngài đang ngự ở một cõi khác với chúng ta, chớ không ở một chỗ khác với chúng ta. Việc Đức Chúa Trời ở trên trời nhưng luôn luôn gần gũi các con cái Ngài trên đất, là điều mà Kinh Thánh quả quyết.
THỜ PHƯỢNG
Biết được tính cách vĩ đại của Đức Chúa Trời chúng ta vừa hạ mình (xem mình nhỏ hẳn lại) vừa cung kính thờ phượng Ngài. Bài Cầu Nguyện của Chúa không những dạy chúng ta biết cầu xin điều này điều nọ; nhưng còn biết thờ phượng Đức Chúa Trời như Đấng hiện hữu, do đó phải tôn danh Ngài nên thánh trong lòng chúng ta. Các thiên sứ và thánh đồ vẫn thờ phượng Đức Chúa Trời là Cha trong nơi vinh hiển (Eph Ep 3:14 và tt), và chúng ta cũng vậy.
Biết Đức Chúa Trời là Cha đang ngự trên trời, chúng ta càng ngạc nhiên khi ý thức mình là con cái Ngài được đặc quyền cầu nguyện, tương giao với Ngài bằng 'đường dây nóng' đường dây độc quyền và sẵn sàng. Mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời là 'đường dây nóng', vì tuy Ngài là Chúa tể của các thế giới, Ngài vẫn luôn dành thì giờ cho chúng ta. Ngài nhìn biết mọi sự, bao giờ cũng quan tâm đến chúng ta bất cứ lúc nào chúng ta kêu cầu Ngài. Thật diệu kỳ biết bao! Nhưng chúng ta có thật sự 'nhập tâm' như vậy không? Điều đó đáng để chúng ta suy nghĩ và có hai con đường để tâm trí chúng ta lựa chọn nếu muốn lãnh hội cho đúng điều đó.
Hoặc suy nghĩ trước hết về đặc tính vĩ đại của Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vô hạn và đời đời, “ở nơi sự sáng không thể đến gần được” (ITi1Tm 6:16) rõ ràng rất xấu xa. Hãy suy nghĩ về câu hỏi của Sa-lô-môn “Có thật rằng Đức Chúa Trời ngự chung với loài người trên đất ư? Kìa trời, cho đến nỗi trời của các từng trời còn chẳng có thể chứa Chúa được thay...” (IISu 2Sb 6:18). Rồi suy nghĩ đến câu trả lời của Ngài “Đấng cao cả ở nơi đời đời vô cùng danh Ngài là thánh, có phán như vầy: Ta ngự trong nơi cao thánh, với những người có lòng ăn năn đau đớn và khiêm nhường...” (EsIs 57:15). Bạn hãy nhớ lại lời hứa ấy đã ứng nghiệm cách sâu nhiệm nhất, khi Đức Chúa Trời trở thành Cha của những người tội lỗi hay chết như chúng ta, là những tội nhân biết ăn năn thống hối và khiêm nhu hạ mình, nhận rằng mình hoàn toàn lạc mất, lấy đức tin chạy đến với Chúa Giê-xu tìm nơi trú ẩn. Vì Đức Chúa Trời đáng kính sự thánh khiết và siêu việt lấy tình yêu thương xuống thế nâng chúng ta lên từ vũng bùn lấm, đưa chúng ta vào gia đình Ngài, tự hiến thân để có sự thông công liên tục với chúng ta, và do đó chúng ta trở thành giàu có đời đời.
Hoặc suy nghĩ về địa vị làm Cha của Đức Chúa Trời, nhớ lại rằng Ngài vốn ở 'trên trời' (là “Cha trên trời” như chúng ta nói); nghĩa là Ngài không bị điều gì giới hạn, không có một khiến khuyến, một tì vết nào như cha mẹ trần gian của chúng ta, đứng từ mọi góc cạnh nhìn vào địa vị của Ngài cũng như tất cả các mối liên hệ khác đều lý tưởng, trọn vẹn, và vinh hiển tuyệt đối. Không hề có bậc cha mẹ nào lại hết lòng lo cho sự an vui của con cái mình hay ban phát mọi điều với khôn ngoan và rộng lượng hơn là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa chúng ta.
Hãy để cho tư tưởng bạn theo dòng thời gian chắp cao đôi cánh “Ngài là Cha tôi, và Ngài là Đức Chúa Trời ở trên trời, Ngài là Đức Chúa Trời ở trên trời - và Ngài là Cha tôi! Điều đó thật quá sức tưởng tượng của tôi nhưng là sự thật!”. Hãy lãnh hội, hãy nắm chặt lấy, hay đúng hơn, là hãy để cho điều đó nắm chặt lấy; rồi hãy thưa với Đức Chúa Trời về những gì bạn cảm thấy; và đó chính là sự là sự thờ phượng mà Chúa muốn nói khi Ngài ban cho chúng ta bài cầu nguyện mẫu với Đấng vừa là Cha Ngài cũng là Cha chúng ta nữa.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Liên hệ với siêu việt tính của Đức Chúa Trời: Êsai 40
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Sự kiện chúng ta cầu nguyện với Đức Chúa Trời ở trên trời quan trọng như thế nào?
2. Tác giả ngụ ý gì khi bảo rằng Đức Chúa Trời 'ngự ở một cõi (plane) khác với chúng ta, chớ không phải ở một chỗ (place) khác với chúng ta?' Điều đó nói lên điều gì về Đức Chúa Trời?
3. Biết rõ tính cách vĩ đại của Đức Chúa Trời chúng ta phải đáp ứng như thế nào?

DANH NGÀI ĐƯỢC THÁNH
Thói thường, tất cả những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bắt đầu và kết thúc với chính mình, vì tánh cho mình là trung tâm (self-centeredness) của chúng ta không có giới hạn. Dĩ nhiên những lời khấn vái như người ngoại đạo không thấy có nơi những người xưng là Cơ-đốc nhân. Nhưng Bài Cầu Nguyện mẫu của Chúa Giê-xu vừa là bài học để làm chiếc nạng, con đường và dạy cách bước đi cho chính chúng ta là kẻ què thuộc linh, để chúng ta biết phải bắt đầu với Đức Chúa Trời: vì bài học đầu tiên là phải hiểu rằng Đức Chúa Trời quan trọng hơn bản thân chúng ta. Cho nên 'Ngài' là chữ chìa khóa cho ba lời khẩn xin mở đầu, mà lời cầu xin quan trọng nhất là để 'danh Ngài được thánh' - đó là lời cầu xin quan trọng và căn bản nhất trong cả bài cầu nguyện. Hiểu rõ và làm được như vậy bạn đã khám phá và nắm được bí quyết của cả sự cầu nguyện lẫn đời sống vậy.
VINH HIỂN THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Cầu xin 'danh Ngài được thánh' có nghĩa gì? Trong Kinh Thánh, 'danh Đức Chúa Trời' luôn có nghĩa là con người mà Ngài đã tự bày tỏ cho chúng ta biết. 'Được thánh' có nghĩa là được biết, được thừa nhận, được tôn là thánh khiết. 'Thánh' là từ ngữ Kinh Thánh chỉ tất cả những gì khiến Đức Chúa Trời khác hơn chúng ta, nhất là về phương diện quyền phép và sự tinh khiết đáng sợ của Ngài. Vậy, lời khẩn xin này cầu cho Đức Chúa Trời của Kinh Thánh được ca ngợi tán tụng và tôn vinh, và chỉ một mình Ngài mới là đầu mối của tất cả mọi sự.
Tất cả các trường phái tư tưởng Cơ-đốc giáo đều nhấn mạnh hoặc ít hoặc nhiều sự phân biệt rõ việc đề cao chính chúng ta với việc ca ngợi tán tụng Đức Chúa Trời, là chủ đích phải lẽ của đời sống con người. “Hỡi Đức Giê-hô-va, sự vinh hiển chớ về chúng tôi, bèn là đáng về danh Ngài” (Thi Tv 115:1).
MỘT Ý NGHĨA HƯỚNG DẪN
Ai có thể cầu xin và nói như vậy? Chỉ có người nào nhìn cả cuộc đời từ quan điểm này. Người như vậy sẽ không vào bẫy thuộc linh hóa quá mấu, quá tập trung vào sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời, coi thường công trình sáng tạo của Ngài; người như vậy, dầu có dâng hiến và ý tốt đến đâu đi nữa, cũng là người thiếu thực tế, và làm tổn thương nhân tính của mình. Trái lại, người ấy sẽ thấy mọi sự tốt đẹp đều phát nguyên từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa, dù loài người có muốn làm gì đi nữa (vẻ đẹp, tình dục, thiên nhiên, con cái, nghệ thuật, thủ công nghệ, thức ăn, cờ bạc, cũng chẳng kém gì thần học hay những đều thuộc về Hội thánh). Rồi bằng sự tạ ơn và niềm vui, người ấy sẽ sống để giúp đỡ người khác thấy các giá trị của đời sống, và ca ngợi chúc tụng Đức Chúa Trời về những điều đó, như chính mình. Nhất là trong thời đại đen tối này, tôn thánh danh Đức Chúa Trời bắt đầu ngay tại đây, với thái độ biết ơn sự tốt lành của công trình sáng tạo.
Tôn thánh danh Đức Chúa Trời không dừng lại ở đây. Nhưng đòi hỏi phải ca ngợi chúc tụng sự tốt lành và công trình cứu chuộc lớn lao của Ngài nữa, hòa với sự khôn ngoan, tình yêu thương, công lý quyền năng và sự thành tín. Bởi sự khôn ngoan, Đức Chúa Trời đã tìm ra một phương pháp để xưng công bình một cách công bằng cho kẻ bất công; bởi tình yêu thương, Ngài ban Con Ngài để gánh lấy cơn hấp hối của sự chết thay cho chúng ta; để tôn trọng công lý, Ngài khiến Con Ngài làm người thế chúng ta, nhận bản án chúng ta phải chịu vì không vâng lời; bởi quyền năng Ngài đã kết hiệp chúng ta với Chúa Cứu Thế phục sinh, làm mới lại chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, thúc giục chúng ta ăn năn và tin Ngài; với lòng thành tín, Ngài giữ gìn để chúng ta khỏi sa ngã, như Ngài hứa sẽ làm (xem GiGa 10:28 ICo1Cr 1:7 và tt; IIPhi 2Pr 1:3-9), cho đến khi Ngài đưa chúng ta vào sự vinh hiển cuối cùng cách đắc thắng khải hoàn. Chúng ta không thể tự cứu! Cả ân điển cứu chuộc của Đức Chúa Trời, công lao cứu rỗi của Đức Chúa Con lẫn đức tin để được cứu của chúng ta đều không phát sinh từ chính chúng ta; tất cả đều là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Từ đầu chí cuối, sự cứu rỗi là của Chúa, và việc tôn thánh danh Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta thừa nhận điều đó, phải ca ngợi chúc tụng và tôn thờ Ngài về tất cả những việc đó.
Như thế cũng chưa hết. Danh Đức Chúa Trời chỉ được tôn thánh đầy đủ, trọn vẹn, để chúng ta thờ phượng vì Ngài đã sắp đặt mọi sự cuối cùng, tất cả đều làm ích lợi cho những kề thuộc về Ngài (xem RoRm 8:28), cũng như để Lời thành văn của Ngài đều trở thành chân lý, đáng tin, khiến mỗi tín hữu đều đánh giá lời ấy là “ngọn đèn cho chơn tôi, ánh sáng cho đường lối tôi” (Thi Tv 119:105). Tác giả Thi thiên nói: “Chúa đã làm cho Lời Chúa được tôn cao hơn cả danh thinh Chúa” (Thi Tv 138:2) và chúng ta cũng phải đối đáp lại y như vậy. Danh Đức Chúa Trời - nghĩa là chính Đức Chúa Trời - bị sỉ nhục nếu con cái Ngài sống trong sợ hãi dường như Cha họ đã mất quyền kiểm soát trên thế giới của Ngài, hoặc nếu họ sống bấp bênh không tin chắc gì cả, dường như họ không dám noi gương người Anh Cả của họ để tiếp nhận những lời dạy và lời hứa của Kinh Thánh như những lời giáo huấn của chính Đức Chúa Cha. Thật đáng buồn vì hiện nay, đang lan tràn những thất bại không tôn thánh danh Đức Chúa Trời như chúng ta vừa kể.
Lòng biết ơn là sự tôn thánh danh Chúa trọn vẹn; điều làm sỉ nhục Đức Chúa Trời là thái độ không chấp nhận chúc tụng, thiếu lòng biết ơn, Phao-lô từng vạch rõ đó là nguyên nhân khiến người ta sa ngã, từ bỏ Đức Chúa Trời (RoRm 1:20 và tt). Không phải chỉ thừa nhận, mà còn biết ơn và bày tỏ điều đó bằng sự vâng lời để tôn vinh Đấng Tạo Hóa mình. “Danh Ngài được thánh” nói lên ước muốn của bản thân chúng ta và tất cả những con người có trí khôn đều đồng thanh tôn vinh Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh gọi tinh thần tôn vinh danh Đức Chúa Trời là 'sự kính sợ' Đức Giê-hô-va, do đó, một mặt có nghĩa là sợ sệt và đánh giá cao sự oai nghiêm của Đức Chúa Trời, mặt khác khiêm nhu hạ mình để tin cậy Ngài (vâng, tin cậy, chớ không phải là hồ nghi hay e sợ). Thi thiên 111 đã trở nên quen thuộc: “Tôi sẽ hết lòng ngợi khen Đức Giê-hô-va... Công việc Đức Giê-hô-va đều lớn lao... vinh hiển oai nghi... chơn thật và công bình... Các giềng mối Ngài đều là chắc chắn... Ngài truyền lập giao ước Ngài đến đời đời. Danh Ngài là Thánh đáng kinh sợ!” và “Sự kính sợ Đức Giê-hô-va (đáp lại bằng lời ca ngợi chúc tụng các công việc và lời phán của Đức Chúa Trời mà bài Thi thiên này vừa nói lên) là khởi đầu sự khôn ngoan” (biết nhận chân con đường sự sống).
Từ ngữ cổ tỏ lòng tôn kính 'kính sợ Đức Chúa Trời' (ngày nay rất ít người xứng đáng để dùng từ ấy), thường có ý nói đến phần lương tri và sự trưởng thành của tâm tính cũng như sự tin kính, do đó phản ảnh sự nhận biết của người xưa về hai việc trên đi đôi với nhau; thật sự tôn trọng danh Đức Chúa Trời dẫn đến sự khôn ngoan thật, thực tiễn và thông minh; và khi thấy Cơ-đốc nhân nào bày tỏ sự khờ dại và nông nổi chúng ta phải tự hỏi không biết người ấy đã thực sự tôn thánh danh Đức Chúa Trời chưa.
CỨU CÁNH CHÍNH YẾU CỦA CON NGƯỜI
Sách Giáo Lý Giản Lược (Shorter Catechism) viết thật hay: 'Mục đích chính của con người là tôn vinh Đức Chúa Trời, và vui hưởng Ngài đời đời', xin chú ý chỉ một cứu cánh duy nhất chớ không có nhiều cứu cánh; vì cả hai hoạt động chỉ là một. Cứu cánh chính của Đức Chúa Trời, chủ đích được đặt vào tất cả những gì Ngài làm, là sự vinh hiển Ngài (Ngài còn có thể nhằm vào một cứu cánh nào cao hơn thế?), cho nên Ngài đã dựng nên chúng ta để chúng ta thấy sự hoàn thiện sâu xa nhất và niềm vui cao cả nhất của mình là tôn thánh danh Ngài qua việc ca ngợi chúc tụng, đầu phục và phục vụ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không tàn ác, đó là nguyên tắc của việc sáng tạo chúng ta. Chúng ta tin hay không tin (và lẽ dĩ nhiên là có rất nhiều người không chịu tin, y như Sa-tan vậy), nhưng Đức Chúa Trời muốn mọi bổn phận, quyền lợi và điều chúng ta ưa thích, đều hòa hợp với nhau.
Các Cơ-đốc nhân bị ám ảnh bởi ý niệm ngoại giáo (là điều sỉ nhục đối với Đức Chúa Trời) cho rằng Đức Chúa Trời luôn gây khó chịu cho người ta, do đó, thà chịu khổ, hơn là cố gắng làm đẹp lòng Ngài; cho nên, những Cơ-đốc nhân ấy rất khó nhận thức chân lý mà chính kinh nghiệm sẽ chứng thực cho đó là bổn phận và sự thỏa lòng đi đôi với nhau trong sinh hoạt Cơ-đốc nhân. Nhưng sự thật là như vậy! Nếu bạn chịu khó suy nghĩ chính đời sống hiện tại của mình, bạn sẽ nhận ra điều đó, và càng rõ ràng nữa trong đời hầu đến. Dâng đời mình để tôn thánh danh Đức Chúa Trời, xem đó là nhiệm vụ không phải là một cuộc dạo chơi đầy thích thú, sẽ càng ngày trở thành một con đường với niềm vui càng tăng lên. Bạn có tin như thế không? Vâng, muốn biết chiếc bánh có ngon không, bạn hãy ăn nó! Cứ thử đi, rồi bạn sẽ thấy.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Danh Đức Chúa Trời được tôn vinh: Thi thiên 148
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bài cầu nguyện của Chúa khác với cách cầu nguyện của chúng ta như thế nào, nếu chúng ta cầu nguyện theo ý mình?
2. Dùng lời lẽ riêng của bạn cho biết tôn thánh danh Đức Chúa Trời có nghĩa gì?
3. Tin rằng mọi sự đều từ Đức Chúa Trời ảnh hưởng như thế nào đến cách nhìn đời của một người?

NƯỚC NGÀI ĐƯỢC ĐẾN
Cả Kinh Thánh khẳng định rằng 'Chúa là Vua', theo nghĩa Ngài đang cầm quyền tể trị trên cả thế gian, nhưng vương quyền và vương quốc (nước) là hai điều khác nhau. Vương quyền là một sự kiện sáng tạo, thường được gọi là quyền năng thần hựu; vương quốc là quyền cai trị thực tế, gọi đúng là ân điển.
Sự khác biệt này có cơ sở trong Kinh Thánh, nhưng ngữ vựng Kinh Thánh đã không vạch rõ như thế. Nước (vương quốc) được cả Cựu lẫn Tân ước dùng chỉ cả quyền tể trị toàn thể vũ trụ của Đức Chúa Trời, lẫn mối liên hệ cứu chuộc của Ngài dành cho mỗi cá nhân qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Trong Bài Cầu Nguyện của Chúa, “Nước thuộc về Ngài” theo nghĩa trước.
Với quyền tể trị, Đức Chúa Trời cầm quyền trên đời sống và hành động của tất cả mọi người, kể cả những kẻ cố ý thách đố và bất tuân lịnh Ngài. Trong khi lòng thù ghét bừng lên, chỉ thua kém việc giết em của Ca-in mà thôi, các anh của Giô-sép đã bán ông làm nô lệ và trình lại với cha họ rằng ông đã chết. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền tể trị, cho nên về sau, Giô-sép đã có thể nói: “Các anh toan làm hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời toan làm đều ích cho tôi” (SaSt 50:20). Dân Do-thái tại Giê-ru-sa-lem “mượn tay những kẻ độc ác đóng đinh Chúa Giê-xu trên thập tự giá và giết đi”, nhưng do quyền tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài đã được giải thoát “theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời” (Cong Cv 2:23).
Nhưng quyền tể trị này khác hẳn việc Đức Chúa Trời lấy ân điển để cai trị trong lòng và trong đời sống của những người bằng lòng quỳ xuống, ăn năn thống hối và tin cậy trước uy quyền của Ngài, muốn được giải thoát khỏi điều ác, và được dẫn dắt trong các nẻo đường công chính. Và đó chính là việc xảy ra khi chúng ta tôn Chúa Giê-xu lên làm vua.
CHÚA GIÊ-XU VÀ NƯỚC NGÀI
Vậy nước Đức Chúa Trời không phải là một nơi chốn, nhưng là một mối liên hệ. Nước Ngài ở bất cứ nơi nào có người đặt Chúa Giê-xu lên ngôi để làm Chúa, làm Chủ đời sống mình. Lúc Chúa Giê-xu bắt đầu truyền giảng “nước Đức Chúa Trời đã đến gần” Ngài muốn nói đến lời hứa từ xưa về việc dân Y-sơ-ra-ên sẽ được hưởng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời để người ta có thể bước vào (Mac Mc 1:5). Họ phải làm sao để bước vào? Các sách Phúc âm đã trả lời rất đầy đủ cho câu hỏi này: bằng cách trở thành môn đệ của Chúa Giê-xu, bằng cách trung tín dâng tấm lòng của họ cho Ngài, để Ngài dạy dỗ, tái tạo đời sống của họ; bằng cách tiếp nhận sự tha tội của Ngài; bằng cách đồng lòng hiệp ý với Ngài không so đo và dành quyền ưu tiên cho Ngài, đặt Ngài đứng trước tất cả mọi người khác - tóm lại, bằng cách bày tỏ điều Phao-lô gọi là “đức tin do tình yêu thương biến thành việc làm” (GaGl 5:6), đức tin thừa nhận và bám chặt lấy Chúa Giê-xu trong câu nói của Phi-e-rơ là “tôn Ngài làm Chúa và Cứu Chúa” (IIPhi 2Pr 1:11 2:20 3:2,18)
Chúa Giê-xu từng vạch rõ về đức tin cho Ni-cô-đem (GiGa 3:13-15), sau khi bảo với ông rằng sẽ chẳng có ai được thấy hay được vào Nước Trời nếu không có một sự biến hóa triệt để từ bên trong bởi Đức Thánh Linh mà Ngài bảo là “được sanh lại” (câu 3-8). Khúc sách này cho chúng ta biết nếu không được Thánh Linh giúp đỡ sẽ chẳng ai được vào Nước Trời, và chúng ta không thể tự cao tự đại để đòi hỏi điều đó, hay không chịu thay đổi theo cách Đức Chúa Trời thấy là cần thiết.
Nước Trời đã cũng đến vời Chúa Giê-xu. Lẽ tất nhiên người ta có thể nói rằng vì là Con Đức Chúa Trời nhập thể, Chúa Giê-xu chính là hiện thân của Nước Trời. Quyền cai trị của Ngài trên các Cơ-đốc nhân và tuyệt đối đúng với ý nghĩa huy hoàng và được nhuộm bằng huyết của Kinh Thánh. Nhưng đòi hỏi của Ngài là các đòi hỏi của Đức Chúa Trời, vượt trên các đòi hỏi của loài người. Thế nhưng Ngài không cai trị độc tài, vì Chúa Giê-xu là đầy tớ của những người thuộc về Ngài, là người chăn và là lãnh tụ của họ, sắp xếp mọi sự để che chở bảo vệ và khiến họ ngày càng được giàu có, phong phú hơn “Ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng” (Mat Mt 11:30).
Rồi Ngài cũng là anh em của họ trong hoàng gia nữa, vì chính Ngài từng sống tại thế như “một người chịu phục dưới quyền người khác” (Mat Mt 8:90 Ngài sẽ chẳng đòi hỏi gì nơi chúng ta nhiều hơn những gì người ta từng đòi hỏi Ngài, tất nhiên cũng không phải bằng như vậy nữa. Bản chất quyền cai trị của Ngài là thái độ chăm sóc của một người chăn chớ không độc quyền độc đoán. “Ta là người chăn hiền lành. Ta quen chiên ta” (GiGa 10:14).
Sự phục vụ đầu tiên và căn bản 'con cháu Đa-vít' giúp đỡ cho các môn đệ Ngài, là cứu họ khỏi tội lỗi và sự chết, theo đúng lời hứa của Đức Chúa Trời. Vậy Nước Trời là vương quốc ân điển, nơi mà những thiệt hại do tội lỗi gây ra được hàn gắn, và Phúc âm ân điển chứng minh nước ấy là gì.
HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
Theo một ý nghĩa, Nước Trời đang hiện diện, và các Cơ-đốc nhân đang ở trong nước ấy. Nhưng theo ý nghĩa khác - là hoàn thiện việc bày tỏ ân điển của Đức Chúa Trời cho đời này - Nước Trời hãy còn trong tương lai, và đang chờ đợi Chúa Cứu Thế tái lâm. Lời cầu nguyện “xin nước Ngài mau đến” là nhìn vào ngày ấy. Nhưng như vậy cũng chưa phải là tất cả ý nghĩa của nó. Bất cứ một yêu cầu nào xin Đức Chúa Trời bày tỏ một cách mới mẻ quyền tể trị bởi ân điển Ngài - phục hưng Hội thánh, đưa nhiều tội nhân ăn năn quy đạo, hạn chế điều ác, ban điều tốt lành cho thế gian này - đều là một lời cầu xin thêm rằng “Nước Ngài (xin) mau đến”. Nếu có ai hỏi trong Bài Cầu Nguyện của Chúa, lời cầu thay tổng quát đã xuất hiện chỗ nào, câu trả lời là ở đây (và nếu có ai hỏi: Tại sao lại tự chất lên mình gánh nặng cầu thay? Câu trả lời là: Vì chúng ta đã được dạy phải cầu nguyện: “Xin Nước Ngài được đến")
SỰ THÁCH THỨC CÁ NHÂN
Cầu xin “Nước Ngài được đến” là tìm cầu và đòi hỏi, vì ta phải sẵn sàng để thêm rằng “và xin bắt đầu với con; hãy khiến con biết vâng phục Ngài trọn vẹn. Xin chỉ cho con biết phải làm gì giữa vòng các công nhân 'vì Nước Trời mà làm việc' (CoCl 4:11), và xin dùng con trong phạm vi con có thể làm được, để mở rộng Nước Ngài, tức là khiến con thành phương tiện Ngài nhậm lời cầu nguyện của con'. Hãy cầu nguyện thật thành tâm; đây là lời cầu nguyện mà Cứu Chúa, Đấng đã gọi chúng ta hãy tự chối mình vác thập tự, liều bỏ mạng sống mình để bằng cách này hoặc cách khác phục vụ Phúc âm - để Ngài sẽ có cơ hội khác phục vụ hoàn toàn sử dụng chúng ta. Chúng ta có thật sự tìm cầu điều đó không? Chúng ta có dám trực diện với nó không? Xin mỗi người hãy tự xét mình, rồi sau đó - và chỉ sau đó mà thôi - mới dâng lên lời cầu nguyện này cho Ngài.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Nước Đức Chúa Trời (thiên đàng): Mat Mt 13:1-52
CÁC VẤN ĐỀ ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bạn có đồng ý với tác giả rằng “Nước Đức Chúa Trời không phải là một nơi chốn, nhưng là một mối liên hệ” hay không? Tại sao có và tại sao không?
2. Tại sao chúng ta có thể nói Chúa Giê-xu đã (và đang) là vua, không phải là bạo chúa?
3. Hãy suy nghĩ về ý nghĩa lời cầu nguyện “Nước Ngài được đến” trong thời đại hiện nay, trong phạm vi bạn có thể thấy được.

Ý NGÀI ĐƯỢC NÊN
Mỗi lời trong Bài Cầu Nguyện của Chúa đều phản ảnh khải tượng của Ngài muốn đời sống chúng ta phải như thế nào - hiệp một, đáp ứng trọn vẹn tình yêu thương của Cha trên trời, để chúng ta tìm cầu sự vinh hiển cho Ngài, tin cậy vào sự chăm sóc của Ngài, vâng lời Ngài mỗi lúc, mỗi ngày. Do đó, nếu muốn đọc Bài Cầu Nguyện của Chúa cách ý nghĩa và thành thật, chúng ta phải xem khải tượng đó của Ngài như của chính mình. Cho nên, khi tôi nói 'Danh Ngài được thánh; Nước Ngài được đến', tôi phải nghĩ 'trong và trung gian của Con', rồi phó dâng đời mình cho Đức Chúa Trời cách mới mẻ trong phạm vi tôi có thể làm được, để làm phương tiện cho Ngài nhậm lời cầu nguyện của tôi. Còn khi tôi nói 'Ý Ngài được nên', tôi phải hiểu rằng lời cầu nguyện này có nghĩa là chính tôi cùng với những người thuộc về Chúa, phải học tập để vâng lời Ngài.
Ở đây, mục đích của sự cầu nguyện trở thành rõ ràng hơn bất cứ chỗ nào khác: đừng bắt Đức Chúa Trời làm theo ý tôi (làm như vậy tức là làm phù phép, ma thuật), nhưng đặt ý tôi cho phép với ý Ngài (đó là ý nghĩa thật sự của việc sống đạo)
KHÔNG THEO Ý CON
Một khi đã hiểu như vậy, lời cầu nguyện 'Ý Ngài được nên' sẽ có một số ý nghĩa. Tôi không thể cầu nguyện ý Chúa được nên mà không tự chối mình đi, vì khi chúng ta bắt tay vào công việc của sinh hoạt hằng ngày, chúng ta thường nhận thấy điều mình làm chính là theo ý mình chớ không phải theo ý Ngài muốn. Tôi cũng không thể cầu nguyện như vậy mà không dâng đời mình để giữ lòng trung tín với Chúa trước cách nghịch cảnh của thế gian sa ngã này, tôi thường gặp Sa-tan làm “vua chúa” (GiGa 14:30). Luther từng thốt lên những lời lẽ như sau: 'Lạy Cha, xin ý Ngài được nên, chớ không phải là ý của ma quỉ, hay của bất cứ kẻ nào muốn lật đổ Lời thánh Ngài hay ngăn trở nước Ngài; xin cho chúng con có đủ kiên nhẫn để chịu đựng và chiến thắng tất cả vì nước ấy, để xác thịt yếu đuối của chúng con không nhượng bộ hoặc chịu thua sự yếu đuối và biếng nhác'. Vì ý Đức Chúa Trời phải được nêu trong đời sống chúng ta trên đất này, cũng giống như giữa vòng các thiên sứ, sẽ đưa chúng ta vào những trận chiến thật sự.
Hãy xét xem lời cầu xin này có ý nghĩa gì khi Chúa Giê-xu dâng nó lên trong vườn Ghết-sê-ma-nê (Mat Mt 26:42). Chúa nhập thể đang nằm trong móng vuốt của nỗi kinh hoàng tấn công vào tâm trí, đã thốt lên không phải chỉ vì sự thống khổ xác thịt và sự khinh dể con người bề ngoài (nhiều người vững vàng vẫn có thể chịu đựng những điều đó vì một chính nghĩa mà không hề nao núng), nhưng trước viễn ảnh phải bị khiến trở thành tội lỗi và bị Đức Chúa Cha ngoảnh mặt, từ bỏ trên thập tự giá. Luther đã nói rất đúng rằng: 'Chưa hề có ai sợ chết như con người này'; đó chính là lý do tại sao. Toàn thể con người Ngài đã rúng động trước viễn ảnh ấy; thế nhưng, lời cầu nguyện của Ngài vẫn là “không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha” (c.39). Chúng ta chẳng bao giờ biết được Ngài đã phải trả giá như thế nào khi cầu nguyện như vậy. Chúng ta cũng không biết mình có thể sẽ phải trả giá như thế nào khi chấp nhận ý Chúa nữa - vì như thế là đều hay.
CHẤP NHẬN Ý CHỈ ĐỨC CHÚA TRỜI
Từ ngữ Hi văn 'được nên' cả trong Bài Cầu Nguyện của Chúa lẫn trong vườn Ghế-sê-ma-nê, theo nguyên văn, đều là 'xảy ra', và ở đây, ý muốn của Đức Chúa Trời gồm hai điều: mục đích của Ngài về các biến cố sẽ xảy ra, và mạng lịnh của Ngài cho những người thuộc về Ngài. Liên hệ với điều trước, 'ý Ngài được nên' bày tỏ tinh thần nhu mì, chấp nhận bất cứ điều gì Đức Chúa Trời đưa đến, hay không đưa đến, không hề than phiền. Liên hệ với điều sau, chúng ta phải xin Đức Chúa Trời dạy mọi người chúng ta biết thực hiện và khiến chúng ta vừa muốn vừa có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình. Bạn có thật lòng cầu nguyện như vậy không? Nó không dễ dàng như thoạt nhìn đâu.
TÌM CẦU Ý CHỈ ĐỨC CHÚA TRỜI
Nhưng làm sao chúng ta biết được Đức Chúa Trời muốn gì nơi chúng ta? Bằng cách lưu tâm chú ý đến Lời Ngài và lương tâm chúng ta, bằng cách để ý đến hoàn cảnh xảy ra, và bằng việc nghe lời khuyên bảo để xét lại tình hình và chính ý thức khôn ngoan của chúng ta về việc gì là phải, là đúng. Nhưng vấn đề ý chỉ Đức Chúa Trời thường trở thành sáng tỏ khi được nhiều Cơ-đốc nhân khác đóng góp ý kiến. Nội tâm chúng ta cũng thường rất quan trọng nữa. Nếu ý chí của chúng ta thuận phục ý chỉ Đức Chúa Trời, thì chẳng những chúng ta sẽ biết Chúa Giê-xu và lời truyền dạy đều từ Đức Chúa Trời đến (GiGa 7:17), mà còn dạy bảo cho chúng ta nếu chúng ta đi lệch ra ngoài đường lối Ngài. “Khi các ngươi rẽ qua bên hữu hoặc bên tả, tai các ngươi sẽ nghe có tiếng đàng sau mình rằng: 'Này là đường dây, hãy noi theo” (EsIs 30:21). Nếu bạn mở lòng mình ra cho Đức Chúa Trời, Ngài sẽ hướng dẫn rõ ràng khi bạn có cần. Đó là một lời hứa.
Nếu bạn chưa biết rõ ý chỉ của Đức Chúa Trời, hãy chờ đợi trong phạm vi có thể được; nếu bạn cần phải hành động, hãy làm theo điều bạn cho là tốt nhất, rồi Đức Chúa Trời sẽ cho bạn biết đang đi đúng đường hay không.
MỘT GIAO ƯỚC VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI
Để kết thúc, đây là vài đoạn trích dẫn trong bộ sách đồ sộ: 'Sự Phục Vụ Theo Giao Ước' (Covenant Service) của giáo hội Giám lý, đề cập đúng điều mà bạn và tôi cần phải nói đến bây giờ. Căn cứ vào một lời nhắc nhở trong giao ước mới mà Đức Chúa Trời từng hứa với chúng ta 'tất cả những gì Ngài đã công bố trong Chúa Cứu Thế Giê-xu', về phần chúng ta cũng 'hứa nguyện không còn sống riêng cho bản thân nữa', người hướng dẫn buổi thờ phượng nói: 'Lạy Đức Chúa Trời, là Cha Thánh, Đấng đã kêu gọi chúng con qua Chúa Cứu Thế Giê-xu để thừa kế giao ước ân điển này, chúng con vui mừng nhận lấy chiếc ách vâng lời và do lòng yêu thương Ngài, xin cam kết sẽ tìm cầu và làm theo ý chỉ trọn vẹn của Ngài'
Rồi cả hội chúng đồng thanh dâng lên lời lẽ của người tín đồ Thanh giáo Richard Alleine mà John Wesley đã ghi lại, cũng về vấn đề ấy vào năm 1755:
'Con không thuộc về con nữa, nhưng thuộc về Ngài. Xin đặt con tại nơi Ngài muốn, xếp con nơi đâu tùy ý Ngài; dạy con việc phải làm, đưa con vào sự đau đớn; dùng con phục vụ Ngài hoặc biệt riêng con cho Ngài; để con được tôn cao vì Ngài hoặc hạ xuống cũng vì Ngài; cho con được đầy dẫy cũng như để con trống không; cho con có mọi sự, khiến con chẳng có gì cả; con xin tự nguyện và hết lòng hiến dâng mọi sự theo ý tốt và sự sắp xếp của Ngài.
'Và giờ đây, lạy Đức Chúa Trời quang vinh và đáng chúc tụng, là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh, Ngài thuộc về con và con thuộc về Ngài. Xin ý Chúa được nên, và giao ước con đã lập trên đất này xin Ngài chấp nhận. A-men'.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Ý chỉ Đức Chúa Trời: Cong Cv 20:16-21:14
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Mục đích thật của sự cầu nguyện là gì? Đó có phải là mục đích của bạn khi cầu nguyện không?
2. Sự cầu nguyện có liên quan gì với sự từ chối mình?
3. Vấn đề nào thường gặp khi muốn tìm cầu ý chỉ Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta, và chúng ta phải giải quyết như thế nào?

Ở ĐẤT NHƯ TRỜI
Trong Lời Cầu Nguyện của Chúa có ba câu liên kết chặt chẽ về phương diện giáo lý. Hai câu đầu thuộc phần gọi danh Đức Chúa Trời. Ngài là Cha của Cơ-đốc nhân, và Ngài ở trên trời. Câu thứ ba bổ túc cho phần hòa âm ba bè (trio) đầu tiên của những lời khẩn xin được đầy trọn: ý Ngài được nên ở trên trời. Câu đầu công bố sự thuận hảo của Đức Chúa Trời đã cứu chuộc chúng ta bằng thập tự giá và nhận chúng ta vào gia đình Ngài. Câu thứ hai và thứ ba tuyên bố tính cách của mình. Kết hợp với nhau, cả ba chân lý ấy vạch rõ niềm hy vọng Cơ-đốc nhân. Với cương vị là Cha, Đức Chúa Trời hứa yêu thương và làm điều thiện cho chúng ta đời đời.
Với cương vị Chúa tể công trình sáng tại đang cai trị trên trời - nghĩa là không bị không gian, thời gian hạn chế như các loài thọ tạo dưới đất này - chúng ta tin chắc Ngài sẽ hoàn thành trọn vẹn mục đích của Ngài. Bạn và tôi đều có thể thất bại trong bất cứ việc gì mình phụ trách, dầu việc ấy vô cùng đơn giản; nhưng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời thành tựu trong tất cả những gì Ngài đề ra để thực thi, cho dù có khó khăn đến đâu đi nữa. Cho nên:
Công việc do lòng nhơn từ thương xót Ngài bắt đầu,
Cánh tay mạnh sức của Ngài sẽ hoàn thành.
Lời Ngài hứa là vâng và A-men,
và chẳng bao giờ bất thành cả.
Cả những việc tương lai lẫn hiện tại,
Mọi sự ở dưới đất lẫn hiện tại,
Điều không thể ở ngoài mục đích của Ngài,
Hay phân rẽ linh hồn tôi khỏi tình yêu của Ngài.
Nhưng khi Chúa Giê-xu nói ý Đức Chúa Trời được nên trên trời, Ngài không hề suy nghĩ nhiều đến việt tính của Đức Chúa Cha liên hệ với một cộng đồng các loài thọ tạo có trí khôn như chúng ta, đang sống gần gũi hơn với Đức Chúa Trời (theo nghĩa họ được gần gũi và được hưởng nhiều quyền lợi hơn chúng ta), và đang phục vụ Ngài với trạng thái xuất thần, hết lòng hết ý mà chúng ta không thể nào đạt tới được trên đời này. Từ ngữ 'trời' ở đây theo nghĩa thông thường nhất của nó tức là 'cõi trời, thiên đàng' mà các Cơ-đốc nhân sẽ 'vào' khi họ qua đời, là tình trạng chúng ta hiện đang dành trọn thì giờ để chuẩn bị và rèn tập.
Theo nghĩa đó, cõi trời quan trọng hơn đời sống này chỉ tạm thời, nhưng vì trên đời này, không có cách gì để chúng ta hưởng được các mối liên hệ trọn vẹn như sẽ được hưởng trong đời sau. Căn cứ vào sự kiện Ba Ngôi Thánh là thực tại tối hậu, chúng ta biết rằng các mối liên hệ ấy phải là đời sống đích thực - sống thật sự, khác biệt với việc chỉ có ý thức như theo cách nhìn của các nhà tâm lý học hiện đại - và thật sự được sống với, được liên hệ tiếp xúc với Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và các thánh đồ, là điều chắc chắn mà từ ngữ trên trời muốn đề cập ở đây. Không phải là chuyện ngẫu nhiên khi Tân ước giới thiệu thiên đàng như là một thành phố (KhKh 2:1), một dạ tiệc (Mat Mt 8:11 LuLc 22:29 KhKh 19:9), và là một hội chúng đang thờ phượng (HeDt 12:22-24 đối chiếu KhKh 7:9-17); các bức tranh này cho chúng ta biết thiên đàng sẽ là một kinh nghiệm được cho sống với nhau, gần gũi thân mật và vui vẻ hơn bất cứ điều gì chúng ta từng được biết, dầu là với Đức Chúa Trời hay với các tín hữu bạn của chúng ta.
Trong tác phẩm Cuộc Ly Dị Vĩ Đại (The Great Divorce) C. S. Lewis tưởng tượng hỏa ngục là một xứ trong đó mọi người luôn luôn tìm cách xa lìa nhau càng nhiều càng hay! (còn Sartre, trong quyển Không lối thoát (No Exit) mô tả hỏa ngục là tha nhân, các thánh đồ sẽ gần gũi thân thiết với nhau, cũng như họ được gần gũi thiết thân với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con - sự gần gũi thân thiết ấy sẽ tăng thêm niềm vui. Chúng ta rất vui mừng được như thế.
Kinh Thánh luôn luôn nhấn mạnh đời sống của 'thế giới bên kia' trên thiên đàng là tốt hơn và vinh hiển hơn đời sống dưới đất này về mọi phương diện. Nhưng khi chúng ta hỏi sự sống ấy thực sự như thế nào, thì Kinh Thánh chỉ nói với chúng ta: “Hãy chờ xem” (RoRm 8:24), 'rồi sẽ biết nó vượt xa những gì chúng ta kinh nghiệm được trong hiện tại, khiến bạn không tài nào quan niệm nổi nó sẽ như thế nào'. Như điều chúng ta được biết thiên đàng là một thực tại không bị không gian và thời gian giới hạn; nó không xác định nơi chốn, không thể căn cứ vào thế giới vật lý để định nghĩa. Như đã nói, tất cả những gì chúng ta biết chắc, ấy là các cư dân của thiên đàng (gồm 'các linh hồn phục vụ' là các thiên sứ với 'linh những người công chính đã được khiến nên trọn vẹn') đều sống trong tình trạng tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời và với người khác trong Đức Chúa Trời, và đều hoàn toàn thỏa lòng trước hiện diện Ngài. Đây là chân lý rõ ràng nhất về thành vinh hiển và buổi tiệc yến lớn mà Kinh Thánh đề cập.
Muốn có sự tương giao trọn vẹn, chẳng những Đức Chúa Trời xóa bỏ mọi ranh giới hoặc hạn chế, nhưng các tôi tớ Ngài - gồm cả thiên sứ các thánh đồ - cần phải đáp ứng lại hết lòng - nghĩa là qua họ, ý chỉ Đức Chúa Trời sẽ được nên cách trọn vẹn. Như vậy việc làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời bị lệ thuộc vào cách định nghĩa thiên đàng (trời) và tùy theo sự vinh hiển thiên đàng mà Đức Chúa Trời ban cho những người có khả năng thực hiện ý chỉ ấy.
CA NGỢI TÁN TỤNG
Tại sao Chúa Giê-xu lại nói 'ý Ngài được nên ở đất' rồi mới thêm vào 'như trời' sau đó? Chắc chắn vì hai lý do:
Trước hết, Ngài muốn làm nảy sinh hy vọng. Cảnh hỗn loạn trên đất chế nhạo những lời khẩn xin; tuy nhiên, bằng việc nhắc nhở chúng ta rằng Đức Chúa Trời đã áp đặt được ý chỉ thật trọn vẹn trên thiên đàng, Chúa Giê-xu muốn khích lệ chúng ta để trên đất này có được niềm hy vọng, thấy những việc lớn lao. “Há có điều chi (khó đến nỗi) Đức Giê-hô-va làm không được chăng?” (SaSt 18:14)
Thế cũng chưa hết. Mục tiêu thứ hai Chúa Giê-xu là muốn thức tỉnh chúng ta ca ngợi chúc tụng. Khi lời khẩn xin được nhậm, lời ca ngợi chúc tụng càng được dâng lên mạnh mẽ hơn, và với Chúa Giê-xu; xen vào giữa hai lời khẩn xin tha thiết là một khoảnh khắc để nghỉ ngơi và dâng lên lời ca ngợi tán tụng - lạy Cha, ý Ngài được nên, Ha-lê-lu-gia xem như đó là việc bồi bổ phần thuộc linh giữa giờ, do đó, sức lực sẽ được tăng thêm để cuộc chiến đấu bằng lời cầu thay sẽ được tiếp tục. Ở đây, Chúa Giê-xu muốn dạy chúng ta bài học quý báu là sự ca ngợi chúc tụng tăng thêm sức lực khiến chúng ta có thể cầu nguyện cách mới mẻ. Vậy chúng ta hãy nghe theo lời Ngài.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đất với trời: Hê-bơ-rơ 12
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Đức Chúa Trời không hề bị không gian và thời gian giới hạn?
2. Những yếu tốt cần thiết cho sự tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời là gì?
3. Tác giả muốn nói gì trong câu: 'Khi lời khẩn xin được nhậm, lời ca ngợi chúc tụng càng được dâng lên mạnh mẽ hơn?'

THỨC ĂN ĐỦ NGÀY
Sau khi tập trung chú ý vào danh, nước, và ý chỉ Đức Chúa Trời, Bài Cầu Nguyện của Chúa nói đến phần lương thực thực phẩm của chúng ta. Phải chăng đây là một sự xuống dốc? Không bao giờ; đây là một bước tiến thật sự.
Vì, trước hết, những người đã thật sự khẩn xin ba điều, mà họ đã tự nguyện tận hiến cho Đức Chúa Trời. Tất nhiên, điều tự nhiên và hợp lý tiếp theo phải là xin lương thực để có đủ sức lực thực hiện những điều trên. Câu trả lời của tiến sĩ Johnson đối với lời chỉ trích ông quá lo cho bao tử của mình, là những ai chểnh mảng các nhu cầu của dạ dày mình, chẳng bao lâu, sẽ không còn có đủ điều kiện để làm chuyện gì khác. Phải chăng đó là Cơ-đốc giáo thực tiễn? Vâng, đúng vậy.
Thứ hai, trong từng khoảnh khắc, chúng ta đều phải lệ thuộc Đấng Tạo Hóa là Cha, Ngài gìn giữ chúng ta và toàn thể vũ trụ tồn tại (vì nếu không do ý chỉ Ngài chẳng có vật gì tồn tại) và duy trì hoạt động nhịp nhàng của cõi thiên nhiên, để hằng năm đều có mùa gieo giống, mùa gặt hái, có lương thực trong kho xem SaSt 8:22); và chúng ta thừa nhận sự lệ thuộc đó bằng lời cầu nguyện thường xuyên, nhất là vào một thời đại như của chúng ta ngày nay, thời đại mà người ta quyết đoán cõi thiên nhiên tự nhiên mà có, và đặt vấn đề về sự thực hữu của Đức Chúa Trời.
Một số người cho rằng cầu xin các nhu cầu vật chất và cá nhân như vậy, là lời cầu nguyện thấp kém, vì Đức Chúa Trời chẳng quan tâm đến phương diện thuộc thể của đời sống, và chúng ta cũng không cần quan tâm chú ý như vậy. Nhưng 'thiêng liêng quá' như vậy thật ra là bước hụt hẫng của người không thật sự thuộc linh; xin xem trong CoCl 2:23, Phao-lô cảnh cáo rằng chủ nghĩa khắc khổ nhân tạo không hề ngăn chận được sự buông lung của xác thịt (nghĩa là bản ngã tội lỗi). Nhưng lời cầu xin, xem Đức Chúa Trời là nguồn duy nhất và toàn năng để cung cấp mọi nhu cầu cho con người cả các nhu cầu tầm thường nhất, là nói lên một chân lý; như việc nhận mình không thể tự lo liệu đầy đủ được mọi sự cho bản thân là một hành động khiêm nhu tự hạ mình, cho nên công nhận chúng ta phải lệ thuộc Đức Chúa Trời, tức chúng ta đã tôn vinh Ngài. Cả tâm trí lẫn tấm lòng của chúng ta đều chưa ngay thẳng, thành thật nếu chúng ta chưa thấy được điều thiết yếu và quan trọng là chúng ta phải cầu xin Chúa cho mình thức ăn đủ dùng hằng ngày cũng như (phải cầu xin) sự tha tội vậy.
Thứ ba, Đức Chúa Trời thật có lo liệu nhu cầu thiết yếu cho con cái Ngài, như việc Chúa Giê-xu từng hóa bánh cho 4.000 người và một lần cho 5.000 người ăn. Đức Chúa Trời lo lắng cho các nhu cầu thuộc thể chẳng kém gì các nhu cầu thuộc linh; đối với Ngài, vấn đề căn bản là các nhu cầu của nhân loại, gồm cả hai phương diện.
Lời khẩn xin này cho chúng ta thấy rõ phải đối xử với thân thể mình như thế nào. Đạo Cơ-đốc không thần thánh hóa thân xác, không xem sức khỏe và sắc đẹp như cứu cánh, như các ngoại giáo hiện đại chủ trương; nhưng cũng không khinh dể thân xác, cho rằng ép xác khổ tu là đức hạnh như một số ngoại giáo đời xưa (và ngay cả một số người tự xưng là Cơ-đốc nhân nữa) đã làm. Đúng ra, Cơ-đốc giáo thừa nhận thân thể con người là một thành phần của công trình sáng tạo tốt lành của Đức Chúa Trời, đóng vai trò của người quản lý, hướng dẫn, và được hưởng trọn những điều lành, vui vẻ cách bình thường. Làm như vậy là chúng ta tôn vinh Đấng Tạo Hóa. Nhưng hưởng thụ như thế đối với các môn đệ của Đấng Christ là không hề trái với Kinh Thánh; với họ nó còn giống với sự cứu rỗi, là ân tứ vô điều kiện mà Chúa đã ban cho.
Kinh Thánh chống lại mọi khắc khổ chủ nghĩa nếu bạn vui hưởng sức khỏe, ăn biết ngon, có sự nhanh nhẹn thuộc thể và đời sống lứa đôi vì được Đức Chúa Trời ban cho những điều đó, bạn phải tận hưởng, thích thú với những điều đó. Sự thích thú như vậy (không phải là hoàn toàn, nhưng là một phần) là nhiệm vụ và sự phục vụ Đức Chúa Trời của chúng ta, vì nếu không làm như vậy, chúng ta tỏ ra vô ơn đối với những ân tứ tốt đẹp. Như Srewtape nói rất chí lý (với vẽ ghê tởm) 'Hắn ta theo khoái lạc chủ nghĩa thâm căn cố đế; hắn ta đánh giá cao sự vui thú'. Một số ra-bi đã dạy rất đúng rằng đến ngày phán xét, Đức Chúa Trời sẽ bắt tội chúng ta về những thú vui mà Ngài đã ban cho chúng ta, nhưng đã bị chúng ta khinh dể xem thường. Bạn đã biết cách hưởng thụ cả về phương diện thuộc thể để tôn vinh Đức Chúa Trời chưa?
CÁC NHU CẦU VẬT CHẤT
Xin lưu ý chúng ta cầu xin để được đồ ăn đủ ngày. Ở đây có sự cầu thay cho người khác, đồng thời với việc cầu xin cho bản thân ta. Và 'đồ ăn' (bản Anh văn là bánh mì) có thể là thức ăn cả cho người đời xưa lẫn hiện nay, tức là tất cả những gì cần thiết để bảo tồn sự sống. Như vậy 'đồ ăn' gồm đủ loại lương thực thực phẩm; vậy đây là lời cầu nguyện cho các nông dân và chống lại nạn đói. Rồi lời cầu nguyện ấy cũng bao gồm luôn đồ mặc, chỗ cư trú và sức khỏe thuộc thể nữa; và như thế lời cầu nguyện ngày trở thành lời cầu thay cho các công tác phục vụ xã hội và y tế nữa. Hay hơn nữa, lời cầu nguyện này cũng gồm luôn tiền bạc và khả năng làm việc để được hưởng lương bổng, và như thế là cũng trở thành một lời kêu gào chống lại sự nghèo đói và nạn thất nghiệp, chống các chính sách quốc gia nào tạo ra và kéo dài cả hai tệ nạn ấy. Luther mong rằng các vua nên chạm những ổ bánh mì thay cho những con sư tử trên các chiếc bàn của họ để nhắc nhở họ rằng sự an vui của thần dân họ phải đứng ở hàng đầu, và cũng khuyến cáo việc cầu nguyện cho các nhà cầm quyền dưới câu này trong Bài Cầu Nguyện của Chúa là thích đáng.
HẰNG NGÀY
J. B. Phillips đã dịch rất đúng câu này là 'xin cho chúng tôi thức ăn cần thiết cho ngày hôm nay (mỗi ngày)'. Chúng ta được dạy phải cầu xin 'đồ ăn' (bánh mì) như dân Y-sơ-ra-ên được dạy lượm bánh ma-na tùy theo sự tiêu dùng hằng ngày; sống đạo Cơ-đốc, là luôn luôn sống lệ thuộc Đức Chúa Trời, hằng ngày. Rồi chúng ta cũng phải xin số thức ăn mà mình cần, nghĩa là xin được cung cấp các nhu cầu, chớ không phải là các xa xí phẩm mà chúng ta vẫn chẳng cần đến nếu không có. Lời cầu nguyện này không hề thánh hóa tánh tham ăn! Hơn nữa, chúng ta còn chuẩn bị sẵn sàng như đã cầu nguyện, để nhận những gì Đức Chúa Trời chỉ ra như là câu trả lời của quyền năng thần hựu, chớ không phải ban cho điều chúng ta tìm cầu, là điều chúng ta không hề thật sự cần đến.
Bây giờ đến phần trắc nghiệm thật sự của đức tin. Bạn là Cơ-đốc nhân, vừa cầu nguyện (tôi cứ cho là như vậy) xin được đủ thức ăn cho ngày hôm nay. Vậy, bây giờ bạn có tin rằng điều bạn đang có, dầu nhiều dầu ít, cũng đều là câu trả lời của Đức Chúa Trời đúng theo lời hứa trong Mat Mt 6:33 hay không? Và căn cứ vào đó, bạn có hài lòng và tạ ơn không? Phần trả lời được dành cho chính bạn.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức Chúa Trời cung cấp: Thi thiên 104; Mat Mt 6:19-34
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bạn có đồng ý rằng Đức Chúa Trời quan tâm cả đến các nhu cầu thuộc thể lẫn thuộc linh không? Tại sao có và tại sao không?
2. Với tư cách những người quản gia, quản lý, chúng ta phải có thái độ nào đối với chính thân thể mình?
3. Tại sao và theo nghĩa nào, Cơ-đốc giáo dạy người tín đồ chỉ nên sống ngày nào vừa đủ cho ngày ấy mà thôi?

XIN THA TỘI LỖI CHÚNG TÔI
Cơ-đốc nhân được sống là nhờ sự tha tội. Đây là điều sự xưng công bình bởi đức tin đề cập. Nếu Con Đức Chúa Trời không gánh thay hình phạt tội lỗi để chúng ta được giải phóng, chúng ta chẳng bao giờ có sự sống hay hi vọng nào nơi Đức Chúa Trời. Nhưng các Cơ-đốc nhân vẫn còn thiếu sót, khuyết điểm, vẫn cần được tha tội hằng ngày, cho nên trong phần thứ hai của Bài Cầu Nguyện của Ngài, Đức Chúa Giê-xu cầu xin điều đó giữa lời khẩn xin được ban cho các nhu cầu vật chất và gìn giữ tâm linh. Lời cầu nguyện này chẳng phản ảnh điều gì của riêng Ngài cả, vì Ngài biết rõ Ngài vô tội (xem GiGa 8:46); phần này dành riêng cho chúng ta.
MÓN NỢ
Các Cơ-đốc nhân cần hiểu vấn đề tội lỗi của mình như thế nào? Kinh Thánh trình bày tội lỗi vi phạm luật pháp, là sự lệch lạc thiếu hụt, phản loạn, ô uế, sai trật mục tiêu, và tất cả những điều đó luôn có liên hệ với Đức Chúa Trời, nhưng khía cạnh đặc biệt nhìn thấy qua Bài Cầu Nguyện của Chúa, là những món nợ chưa trả. “Xin tha nợ cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha những kẻ mắc nợ chúng tôi” (bản RSV dịch Mat Mt 6:12 cũng xem LuLc 11:4 và ẩn dụ về hai con nợ trong Mat Mt 18:23 và tt). Trong ý nghĩ của Chúa Giê-xu, chúng ta nợ Đức Chúa Trời lòng thành tuyệt đối - nghĩa là phải nồng nhiệt yêu thương Đức Chúa Trời và người khác, mỗi ngày và suốt đời, theo mẫu mực chính Chúa Giê-xu đưa ra - và tội lỗi của chúng ta về cơ bản chúng ta không thể nào trả nổi. Sách Cầu Nguyện dạy rất đúng về việc phải xưng ra các tội lỗi vì thiếu sót không làm, trước khi xưng ra các tội được lịnh phải làm. Khi các Cơ-đốc nhân tự xét mình, họ phải xét những khiếm khuyết của mình trước hết, và bao giờ họ cũng sẽ tìm thấy những tội lỗi đáng buồn nhất mặc lấy hình thức của điều tốt, điều thiện mình không làm. Lúc Tổng Giám mục Usher hấp hối, ông cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, trước hết xin tha các tội thiếu sót của con' ông bày tỏ ý thức thuộc linh rất thực tế.
NHỮNG ĐỨA CON PHẠM TỘI
Một vấn đề nảy sinh ở đây. Nếu sự chết Chúa Cứu Thế chuộc hết mọi tội chúng ta cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai; và nếu án lịnh của Đức Chúa Trời xưng công bình người tin Chúa là đời đời, tại sao Cơ-đốc nhân cần xưng ra những tội phạm hằng ngày của mình với Đức Chúa Trời? Câu trả lời nằm trong việc phân biệt giữa Đức Chúa Trời ở cương vị Quan Tòa và ở địa vị làm Cha; giữa việc Chúng ta là tội nhân được xưng công bình, với địa vị chúng ta là con thừa nhận. Bài Cầu Nguyện của Chúa là bài cầu nguyện trong gia đình, trong đó những người con được thừa nhận dâng lên cho Cha họ, và tuy những thất bại hằng ngày không phá tan được việc họ đã được xưng công bình, nhưng mọi việc vẫn chưa ổn thỏa giữa họ với Cha trước khi họ nói: 'Xin lỗi' và xin Ngài bỏ qua những điều họ đã làm sỉ nhục Ngài. Nếu mỗi lần đến với Đức Chúa Trời các Cơ-đốc nhân không ăn năn như những đứa con hoang đàng trở về, lời cầu nguyện của họ sẽ không thật, như cách cầu nguyện của người Pha-ri-si trong ẩn dụ của Chúa Giê-xu vậy.
QUÁ SỨC CHỊU ĐỰNG
Đến đây, chúng ta được một bài học: Cơ-đốc nhân phải sẵn sàng tự xét và để cho người khác tra xét hầu khám phá các thiếu sót hằng ngày của mình. Người Thanh giáo đánh giá cao các nhà truyền đạo sẵn sàng 'làm chín muồi' lương tâm người ta; ngày nay những bài giảng như vậy còn cần thiết hơn nhiều. Kỷ luật tự xét mình, tuy bị tánh kiêu ngạo của chúng ta ghen ghét, nhưng rất cần thiết vì Cha thánh khiết trên trời sẽ không nhắm mắt bỏ qua các thất bại của con cái mình, như những bậc cha mẹ chúng ta cũng cần phải biết những gì Ngài đã biết về tội lỗi chúng ta để ăn năn và xin Ngài tha thứ bất cứ một vi phạm nào.
Theo một quan điểm, các thiếu sót của Cơ-đốc nhân là những vi phạm thông thường nhất, chính vì họ có lý do nhiều nhất (tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế) và có nhiều nguồn tài nguyên nhất (được Đức Thánh Linh ngự trong lòng) để có thể tránh khỏi các con đường tội lỗi. Những kẻ tin rằng trong Chúa Cứu Thế, tội lỗi họ đã được khỏa lấp nên họ chẳng cần bận tâm giữ luật pháp của Đức Chúa Trời nữa, đều sẽ bị xấu hổ vô cùng (xem Rôm chương 6). Nếu một người chồng biết được vợ mình vẫn hay lang chạ với kẻ khác, người ấy chắc phải khó chịu hơn khi biết cô gái bên hàng xóm vẫn hay làm như vậy, cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ tức giận càng sâu xa hơn khi dân Ngài tỏ ra bất trung (xem sách tiên tri Ô-sê, nhất là các chương 1-3) “Vì ý muốn Đức Chúa Trời ấy là khiến anh em nên thánh” (ITe1Tx 4:3) - và ngoài ra chẳng có điều gì khác khiến Ngài hài lòng được.
Sách Cầu Nguyện 1662, trong phần về Tiệc thánh, dạy các Cơ-đốc nhân phải gọi 'gánh nặng' của tội lỗi là 'quá sức chịu đựng'. Cách nói mạnh như thế bày tỏ nhận thức về nỗi đau buồn quá sức chịu đựng do tội lỗi đem đến mức nào đối với việc này? Là con cái Đức Chúa Trời chúng ta quan tâm như thế nào về đời sống chúng ta cần được tư do, không bị tội lỗi trói buộc, tự tra xét và đối diện với tội lỗi mình mà còn 'nhờ Thánh Linh' để 'làm cho chết các việc của thân thể' (tức là các thói quen của bản ngã tội lỗi cũ) suốt đời (RoRm 8:13).
CHỈ NGƯỜI BIẾT THA THỨ MỚI ĐƯỢC THA THỨ
Chúa Giê-xu phán những ai hi vọng được Đức Chúa Trời tha tội cho, phải thưa với Ngài rằng chính mình cũng tha cho những kẻ mắc nợ mình nữa. Đây không phải là vấn đề trả công giá bằng việc làm để được tha tội, nhưng để sự ăn năn thống hối đủ điều kiện được tha tội. Ăn năn - thay đổi - là tâm điểm của lòng thương xót và nhẫn nhục trong nếp sống mới của một người. Những ai sống nhờ ơn của Đức Chúa Trời, phải tha thứ như Ngài; người nào sống trong hi vọng Đức Chúa Trời sẽ không chấp trách các lầm lỗi của mình, sẽ mất hết các quyền hạn của chính mình khi cứ chấp trách các lỗi lầm của người khác. Luật được áp dụng là các ngươi muốn người ta làm cho mình thể nào, hãy làm cho họ thể ấy, là một Cơ-đốc nhân không chịu tha thứ đã tự dán nhãn hiệu kẻ giả hình cho mình. Muốn được tha tội chỉ nhờ đức tin vào Chúa Cứu Thế, chớ không nhờ việc lành, nhưng ăn năn là kết quả của đức tin, một đức tin thật phải có ăn năn thật đi kèm. Chính Chúa Giê-xu từng nhấn mạnh rằng chỉ có những người biết tha thứ mới nhận được sự tha tội (Mat Mt 6:14 18:35)
Vậy, một lần nữa, vấn đề là: Tôi có đọc lên được Bài Cầu Nguyện của Chúa không? Còn bạn có thể đọc được chứ? Tất cả chúng ta đều cần biến mấy giòng sau đây thành chính những lời khẩn nguyện của riêng mình:
“Xin tha tội chúng tôi như chúng tôi cũng tha...”
Ngài đã dạy chúng tôi cầu nguyện như vậy; nhưng cũng chỉ một mình Ngài mới ban ân điển cho chúng tôi để sống theo những lời chúng tôi nói.
Làm thế nào sự tha thứ của Ngài thành đạt và ban phước cho kẻ không chịu tha thứ, vẫn ấp ủ điều sai quấy, và không để cho những cay đắng cũ ra đi?
Thập tự giá Ngài làm sáng tỏ chân lý mà chúng tôi chỉ biết lờ mờ
Các khoản tha nhân nợ chúng tôi nhỏ mọn biết bao
Còn những gì chúng tôi nợ Ngài lại quá lớn lao.
Lạy Chúa, xin tẩy sạch những nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn chúng tôi, và khiến cho sự oán ghét ngưng lại; để sau khi đã phục hòa với Đức Chúa Trời lẫn loài người, đời sống chúng tôi truyền ra sự bình an của Ngài.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Xin tha tội: Thi thiên 51
Điều kiện để được tha tội: Mat Mt 18:23-35
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bài Cầu Nguyện của Chúa định nghĩa tội là gì? Điều đó được nhìn thấy như thế nào trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta?
2. Tại sao cần xưng tội hằng ngày sau khi đã trở thành Cơ-đốc nhân?
3. Tại sao các Cơ-đốc nhân không chịu tha thứ là giả hình?

XIN CHỚ ĐỂ CHÚNG TÔI BỊ CÁM DỖ
Sau lời cầu xin được cung cấp nhu cầu và tha tội là tiếng kêu cầu được bảo vệ, nhu cầu căn bản thứ ba của chúng ta. Câu này gồm hai vế: 'Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác' (tức là tội lỗi, hoặc hoạn nạn khó khăn, hoặc cả hai, hoặc 'kẻ ác' kẻ lợi dụng khó khăn hoạn nạn thừa cơ đưa tội lỗi vào). Tuy nhiên, cả hai câu đều diễn tả cùng một tư tưởng: 'Đời sống là một bãi mìn thuộc linh; giữa trăm ngàn nguy khốn đó, chúng con không dám cậy vào chính mình; lạy Cha, xin giữ cho chúng con an toàn'. Ở đây, Bài Cầu Nguyện của Chúa kết hợp với nhân sinh quan xuyên suốt sách Thi-thiên. Thực tế chủ nghĩa, sự không tin cậy vào bản thân, và sự hạ mình nương dựa vào Đức Chúa Trời hàm chứa từ lời khẩn xin này là điều chúng ta cần học hỏi.
THỬ NGHIỆM
Nhiều người kinh ngạc và bối rối vì nghĩ rằng Đức Chúa Trời đưa các Cơ-đốc nhân vào cám dỗ như câu đầu quả quyết. Tuy nhiên, mọi việc sẽ rõ ràng hơn khi chúng ta hiểu được cám dỗ ở đây có nghĩa gì. 'Thử nghiệm' - tình huống cho thấy bạn có khả năng đi đúng đường và không sai lạc đến mức độ nào - là ý niệm ẩn đàng sau từ ngữ này. Thi lái xe nhằm tạo cơ hội để bạn tự chứng minh khả năng (dầu bạn tin vào tài năng bạn thế nào), thử thách theo nghĩa đó là một 'sự cám dỗ'. Vậy, bất cứ một chương trình giáo dục hay huấn luyện đào tạo nào, nhất thiết cần có những kỳ thi trắc nghiệm định kỳ để 'đo' sự tiến bộ và kinh nghiệm, nếu qua được những kỳ thi trắc nghiệm như vậy các học viên rất được khích lệ. Trong chương trình giáo dục và tăng trưởng thuộc linh các Cơ-đốc nhân của Đức Chúa Trời cũng được áp dụng cùng cách như thế. Đức Chúa Trời vẫn tổ chức và tổ chức đều đặn những cuộc thi, những thử thách như vậy với chúng ta, thử nghiệm xem chúng ta như thế nào, và đã tiến đến đâu. Mục đích của Ngài trong việc này hoàn toàn có tính cách xây dựng, để tăng thêm sức lực và giúp chúng ta tiến bộ. Chẳng hạn Ngài đã 'thử' Áp-ra-ham (cho nên có các bản Kinh Thánh dịch là 'cám dỗ', có bản khác dịch là 'thử nghiệm') bằng cách bảo ông dâng Y-sác làm sinh tế, và sau khi đã 'trắc nghiệm' ông xong, Ngài lại hứa ban cho ông một phước hạnh lớn 'bởi vì ngươi đã vâng theo lời dặn của ta' (SaSt 22:1,18)
KHÔNG PHẢI LÀ ĐI NGOẠN CẢNH
Vậy, nếu cám dỗ đem đến ích lợi tại sao chúng ta lại cầu xin để khỏi bị cám dỗ? Vì ba lý do:
Thứ nhất, khi Đức Chúa Trời thử nghiệm để làm ích lợi cho chúng ta, Sa-tan 'đứa cám dỗ' sẽ cố gắng lợi dụng tình hình để gây tàn hại cho chúng ta 'kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được' (IPhi 1Pr 5:8). Căn cứ vào kinh nghiệm trong đồng vắng của Ngài, Chúa Giê-xu biết rõ Sa-tan quỷ quyệt và ác chiến như thế nào, nên không muốn cho ai đánh giá quá thấp hay liều lĩnh chạm trán với nó (những người học đòi theo 'khoa học huyền bí' ngày nay cần hết sức chú ý đến điều này).
Thứ hai, những áp lực trong lúc chịu thử nghiệm có thể rất ghê sợ đến nỗi một Cơ-đốc nhân chân chính không thể làm gì khác hơn là muốn trốn tránh, giống như mọi người đều muốn trốn ý nghĩ mình có thể bị ung thư vậy. Vì cả hai lý do trên, Chúa Giê-xu đã bắt đầu rất đúng lời cầu nguyện của Ngài trong vườn Ghết-sê-ma-nê, là nơi 'Cha ơi, nếu có thể được, xin chén này lìa khỏi Con' để rồi Ngài đã kết thúc bằng câu 'song không theo ý muốn con, mà theo ý muốn Cha' (Mat Mt 26:39) Gặp cám dỗ không có gì thú vị như tổ chức đi ngoạn cảnh rồi dự tiệc!
Thứ ba, khi biết mình yếu đuối nếu phải chịu thử nghiệm, biết rõ đời sống thuộc linh của mình, và Sa-tan khéo léo lợi dụng để khai thác cả ưu lẫn nhược điểm của chúng ta, phối hiệp việc tấn công vào tiền đồ đời sống Cơ-đốc trong sạch của chúng ta bằng chiến thuật xâm nhập lẫn phục kích, cho nên để tránh việc mạo hiểm khiến chúng ta có thể thường xuyên trở thành nạn nhân của kẻ khác, chúng ta phải hạ mình xuống, không dám tự tin để kêu lên rằng: 'Lạy Chúa, nếu có thể được, xin đừng để cho con bị cám dỗ. Con không muốn liều mạng để có thể tự gây thiệt hại cho bản thân, hoặc làm ô danh Chúa nếu bị thất bại!'. Cám dỗ có thể là điều vẫn dành cho chúng ta nhưng chỉ có kẻ điên dại mới thích thú nó; nhiều người khác vẫn lưu ý tới lời cảnh cáo của Phao-lô đối với kẻ liều lĩnh, vô tâm về phương diện thuộc linh 'Ai tưởng mình đứng, hãy coi chừng ngã' (ICo1Cr 10:12)
THỨC CANH VÀ CẦU NGUYỆN
Khi Chúa Giê-xu thấy các môn đệ Ngài ngủ trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài phán “Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào (nghĩa là bắt đầu bị thua) chước cám dỗ; tâm thần thì muốn (làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời) lắm, nhưng xác thịt (nhân tính) thì yếu đuối” (Mat Mt 26:41). Điều thúc giục Ngài đưa ra lời khuyên dạy này chính là cuộc chiến đấu Ngài đang thực hiện với bản thân, vì chính xác thịt Ngài quyết liệt khước từ viễn ảnh nơi đồi Gô-gô-tha, giờ đây lại thêm vào giấc ngủ của người hết sức mỏi mệt, nhưng được yêu cầu hãy thức canh với Ngài - nghĩa là hãy cùng thức với Ngài, dùng chính sự hiện diện và lời cầu nguyện của họ để hậu thuẫn cho Ngài. Chúng ta nên hiểu rằng việc trắc nghiệm thái độ thành thật và thực tế khi nói 'xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ' chính là lời khuyên 'hãy thức canh và cầu nguyện' kẻo e chúng ta trở thành nạn nhân của nó mà không hề hay biết.
'Canh' gợi ý người lính đang đứng gác, phải chú ý ngay đến các dấu hiệu đầu tiên cho thấy kẻ thù có thể tấn công. Chúng ta, 'canh' sự cám dỗ bằng cách chú ý đến tình hình, bè bạn, và những ảnh hưởng có thể cám dỗ chúng ta để có thể tránh xa. Như Luther nói, bạn không thể cấm con chim đừng bay ngang trên đầu mình, nhưng đừng cho nó làm tổ trên đầu bạn. Hãy tìm xem điều nào giống như lửa đối với bạn và đừng đùa với nó!
'Cầu nguyện' ở đây chỉ về cách cầu nguyện của Chúa Giê-xu: cầu xin sức mạnh để làm điều mình biết là đúng để tìm được chỗ đứng vững chắc trên nền tảng thuộc linh khi phải đối diện với tấm lòng miễn cưỡng cộng với những lời ong tiếng ve dụ dỗ chúng ta từ bỏ chánh đạo.
Chưa có ai diễn tả đúng tâm trạng của mình trong vấn đề này hơn Charles Wesley trong bài thánh ca bắt đầu bằng câu: 'Chúa Giê-xu là sức lực và là niềm hi vọng của tôi. Tôi trông cậy nơi Ngài'
Tôi cần sự sợ hãi tin kính,
Một con mắt biết biền biệt nhanh chóng
Để nhìn chăm Ngài khi tội lỗi đến gần
Để thấy đứa cám dỗ trốn chạy
Một tinh thần luôn luôn sẵn sàng,
Và được trang bị bằng sự cẩn trọng
Để đời đời đứng canh gác
Và thức canh cầu nguyện.
Để kết luận cho vấn đề này chúng ta nên biết: chúng ta sẽ không được miễn trừ khỏi gặp cám dỗ (xem ICo1Cr 10:13) vì là điều cần thiết và để được trưởng thành (xem Gia Gc 1:2-12); nhưng nếu chúng ta cầu xin được miễn trừ và biết thức canh cầu nguyện kẻo Sa-tan cố lợi dụng tình hình để xô ngã chúng ta, chúng ta sẽ bị cám dỗ ít hơn điều đáng lẽ chúng ta phải chịu (xem KhKh 3:10), và sẽ thấy mình sẵn sàng đối phó với sự cám dỗ khi nó đến (ICo1Cr 10:13). Vậy, phải thực tế, chuẩn bị để đối phó với sự cám dỗ; khi đối diện với cám dỗ, đừng nghi ngờ quyền năng của Đức Chúa Trời nhưng phải biết rằng nhờ sự cầu nguyện chúng ta có thể được giải cứu khỏi điều ác, và 'có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm' (Giuđe 24) khi bạn tìm đường để giải thoát. Nếu bạn không ý thức có sự cám dỗ, hãy cầu nguyện 'xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ'; và khi bạn ý thức có sự cám dỗ, hãy cầu nguyện: 'xin cứu chúng tôi khỏi ác', bạn sẽ được sống.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Bà Ê-va bị cám dỗ: SaSt 3:1-7
Áp-ra-ham chịu cám dỗ: SaSt 22:1-19
Chúa Giê-xu gặp cám dỗ: LuLc 4:1-15
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Cám dỗ là gì, theo nghĩa của từ ngữ được dùng ở đây?
2. Chủ đích của Đức Chúa Trời khi thử thách chúng ta là gì? Bạn phải đối phó với sự thử thách đó như thế nào?
3. Tại sao chúng ta phải cầu nguyện xin khỏi gặp cám dỗ?

XIN CỨU CHÚNG TÔI
Chúng ta đã học được khải tượng về đời sống trong gia đình Đức Chúa Trời trong Bài Cầu Nguyện của Chúa có ba chiều hướng. Đó là đời sống hiến dâng, lệ thuộc và nguy hiểm. 'Xin cứu chúng tôi khỏi điều ác' là lời nài xin được bảo vệ khi nỗi nguy hiểm đe dọa mình; và lời khẩn xin này là cách cầu nguyện thông thường, vì chúng ta rất thường gặp. Chắc chắn Sách Cầu Nguyện của Giáo hội Anh quốc nghĩ như vậy. Bộ sưu tập sách Epiphany quyển III có đề cập 'tất cả những điều nguy hiểm cho chúng ta', và quyển IV viết như sau: 'Lạy Đức Chúa Trời, Đấng biết rõ chúng con đang bị đặt giữa nhiều điều nguy hiểm lớn lao mà... không phải lúc nào con cũng đứng thẳng lên được. Xin cho chúng con có sức lực và được che chở để có thể nâng đỡ chúng con trong mọi gian nan và cứu chúng con khỏi cám dỗ', bạn sẽ nhận thấy điều đó là cách nói rộng hơn trong lời cầu xin kết thúc Bài Cầu Nguyện của Chúa.
NGUY HIỂM
Trong nếp sống vững vàng quen thuộc vẫn trôi xuôi, chúng ta không nghĩ đến việc lâm nguy. Đáng lẽ chúng ta phải nghĩ đến việc gặp nguy hiểm, vì chúng ta luôn luôn có thể lâm nguy. Một lần nữa, Sách Cầu Nguyện dạy cho chúng ta điều đó. Bài Cầu Nguyện triển khai câu 'Xin cứu chúng tôi khỏi điều ác' thành năm lời khẩn xin riêng biệt, và trong số những điều ác được kể ra, bên cạnh những hoạn nạn khó khăn do hoàn cảnh tạo ra, có những điều như sau:
'Khỏi tội lỗi, khỏi các mưu mô và các cuộc tấn công của ma quỉ... khỏi tất cả các mù quáng của tấm lòng; khỏi sự kiêu ngạo, hư vinh và giả hình; khỏi thói quen ghen tị, thù oán, quỷ quyệt và mọi hình thức thiếu sự yêu thương... khỏi tội tà dâm và mọi tội gây ra sự chết; khỏi sự lừa dối của thế gian, xác thịt và ma quỉ... khỏi cái chết bắt đắc kỳ tử (bất ngờ, không được chuẩn bị trước)... khỏi sự cứng lòng, chống lại Lời Ngài và Điều Răn Ngài; Lạy Chúa toàn thiện, xin giải cứu chúng con'.
Bây giờ chúng ta đã thấy đâu là những điều nguy hiểm sâu xa nhất đối với mình, và khi nào nó phát sinh. Không những chúng ta cần được giải cứu khỏi nghịch cảnh nhưng còn khỏi điều ác thuộc linh ngay trong lòng chúng ta, khiến cả những hoàn cảnh trái ngang lẫn thuận tiện đều có thể là nguyên nhân của những cuộc tấn công. Tội lỗi trong lòng chúng ta sản sinh đủ mọi khuynh hướng gây nguy hiểm khiến muốn làm điều gì đó trái hẳn với ý chỉ Đức Chúa Trời, và yêu thương một điều gì đó hoặc một ai đó hơn chính Đức Chúa Trời. Bất cứ lúc nào nơi nào cũng có cơ nguy bị dẫn đi sai lạc vì tội lỗi còn ở trong lòng chúng ta.
LỪA DỐI
Xin đọc lại một lần nữa phần trích dẫn từ Bài Cầu Nguyện trên đây. Tất cả những điều ác được liệt kê đều đương nhiên tự phát từ tấm lòng đã bị sa ngã của con người. Sa-tan là kẻ giật dây, quyết định để tội lỗi hành động theo thứ tự, nhưng nó không thể 'tiêm' vào chúng ta; vì chúng ta vốn đã có sẵn trong đó rồi, Và phần lớn tội lỗi đều hoạt động bằng sự lừa dối, 'mù quáng... lừa dối... cứng lòng' là những chữ then chốt nói về các phương pháp của tội lỗi, như 'kiêu ngạo... giả hình... thiếu yêu thương' là những từ ngữ then chốt nói lên cách biểu hiện của tội lỗi. Nhưng kiêu ngạo và thiếu tình yêu thương sẽ ngụy trang thành lòng nhiệt thành sốt sắng đối với Đức Chúa Trời, với chân lý và Hội thánh Ngài - và nhiều điều ác đạo đức và thuộc linh khác nữa sẽ thường xuyên len lỏi xâm nhập khi chúng ta không để ý và mãi bận tâm chú ý đến một việc nào khác. Đó là điều mà mọi người Thanh giáo gọi là 'Điều Bí Mật của sự tự do lừa dối' và thư Hê-bơ-rơ gọi là “sự dỗ dành (lừa dối) của tội lỗi” (HeDt 3:13).
Khi đối đầu với nguy hiểm, những người ý thức được thường giữ thái độ lạnh lùng, nhưng bước đi rất thận trọng, luôn luôn cảnh giác, canh chừng từng bước một và luôn luôn sẵn sàng kêu lên 'Xin cứu tôi' ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của hoạn nạn. Cho nên, Cơ-đốc nhân nhạy cảm sẽ thức canh cầu nguyện, e rằng mình bị sa ngã, cám dỗ chăng (xem Mat Mt 26:41), và tiếng kêu xin giải cứu khỏi điều ác thường nằm sẵn trên môi miệng người ấy. Và như vậy, người ấy sẽ được gìn giữ an toàn.
GIẢI CỨU
Chương trình truyền hình 'Đây là sự sống của bạn' duyệt xét lại đời sống cá nhân từng người khách được mời, bằng cách nhìn từ bên ngoài, căn cứ vào bạn bè, vào những việc người ấy đã làm. Nhưng nếu bạn được hỏi: 'Đời sống của bạn là gì?' câu trả lời của bạn phải phát xuất từ bên trong và ngày càng phải đi sâu hơn. Là con người, bạn là một tạo vật có mục đích và dầu muốn dầu không bạn phải mô tả đời sống của mình qua các mục tiêu bạn đang nhằm vào, và mô tả những thách thức, xung đột, thất bại và tiến bộ trong khi theo đuổi các mục tiêu ấy.
Người đời chỉ nói đến con người bề ngoài, họ đánh giá những thành tựu và cả những gì chưa thực hiện được, những thành công và thất bại trong các nhiệm vụ mình đảm nhận. Những quyển hồi ký và tiểu sử của các nhân vật ngoài đời đều xem xét sự nghiệp của họ theo cách đó. Tuy nhiên, các trước giả Kinh Thánh, các nhân vật và Cơ-đốc nhân trong Kinh Thánh thì khác.
Để bắt đầu, họ nhìn vào cuộc đời có Đức Chúa Trời làm chủ. Họ nhìn vào Đức Chúa Trời là Đấng có những hành động - là yếu tố chính để uốn nắn cuộc đời họ, và như Đấng duy nhất có quyền cắt đặt, giao phó những gì họ phải thực hiện. Và họ nhìn hành động của Ngài theo ý niệm chính. Thứ nhất là lòng nhơn từ thương xót: Đối với họ sống được là 'nhờ ơn thương xót từ đầu chí cuối', như lời trong một bài thánh ca. Ý niệm thứ hai là giải cứu: họ xem chính mình đã được giải cứu rất nhiều lần khỏi hoạn nạn và sự chống đối vẫn đe dọa cầm giữ họ, ngăn trở họ phục vụ Đức Chúa Trời, thông công với Ngài. Đức Chúa Trời 'đã giải cứu chúng tôi khỏi nguy cơ có thể chết lớn dường ấy (những hoạn nạn tại A-si), và sẽ cứu chúng tôi, phải, chúng tôi còn mong Ngài sẽ cứu chúng tôi nữa' (IICo 2Cr 1:10). Phao-lô nói như vậy, tình cảm của ông tiêu biểu cho toàn thể nhân sinh quan theo Kinh Thánh, trong đó hi vọng được thương xót và giải cứu khỏi điều ác, tội lỗi bên trong và bão tố bên ngoài, là một yếu tố thiết yếu của đức tin thuộc mọi thời đại. Nếu dành ít thì giờ tra cứu Thánh Kinh Phù Dẫn, bạn sẽ khám phá cách Kinh Thánh dùng từ ngữ 'giải cứu' và hiểu rõ vấn đề này.
Bạn đã thấy chính đời sống bạn đang bị đe dọa và lâm nguy do đủ loại điều ác, nên rất cần được Đức Chúa Trời giải cứu mỗi giờ mỗi phút hay chưa? Nếu chưa, xin hãy tin tôi: bạn vẫn chưa thấy được điều bạn đang trông đợi! Bạn đang như người nhắm mắt bịt tai, đi lang thang giữa một con đường trong thành phố xe cộ tấp nập đổ xô lại từ cả hai chiều. Hãy học hỏi từ Bài Cầu Nguyện của Chúa để biết thật sự điều gì đang đến trên cuộc đời bạn, rồi bạn ngày càng biết phân biệt những điều nguy hiểm càng hơn, để càng nương cậy vào Đấng Giải Cứu Vĩ Đại. Đức Chúa Trời đã hứa với toàn thể các thánh đồ Ngài: “Bởi vì người tríu mến ta, nên ta sẽ giải cứu người” (Thi Tv 91:14). Hãy nắm chặt lấy, vì lời hứa đó thuộc về bạn đấy.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Một bài ca giải cứu: IISamuên 22 (Thi 18)
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Có sự kiện nào nhắc nhở chúng ta biết trong đời sống, cần phải thường xuyên cầu xin được sự che chở, bảo vệ thuộc linh?
2. Tác giả nói: 'Điều ác thuộc linh ngay trong lòng chúng ta, khiến cả những hoàn cảnh trái ngang lẫn thuận tiện đều có thể là nguyên nhân của những cuộc tấn công'. Ông nói như vậy ngụ ý gì?
3. Câu của người Thanh giáo nói: 'Bí mật của sự tự lừa dối' có nghĩa gì?

KHỎI (ĐIỀU) ÁC
Điều đầu tiên cần nói về điều ác. Đó là một thực tại, và chúng ta không nên cho rằng không hề có như vậy. Các nhà khao học Cơ-đốc, cũng như các thần bí học Ấn giáo muốn loại bỏ nó, xem nó chỉ là ảo tưởng; nhiều người khác cho rằng đó chỉ là chuyện bày đặt, hoặc do hiểu lầm. Nhưng trong Kinh Thánh, điều ác có thật như điều lành điều thiện vậy, và sự khác biệt giữa chúng rất rõ ràng, dứt khoát.
Điều thứ hai cần nói về điều ác. Đó là một thực tại phi lý, vô nghĩa, chỉ có thể định nghĩa là điều tốt, điều thiện bị phá hỏng, làm hư.
Điều thứ ba cần nói về điều ác, ấy là Đức Chúa Trời đang thống trị nó. Với cái giá trả tại Gô-gô-tha, Ngài đã nhận trách nhiệm biến điều ác thành điều lành, điều tốt; Ngài đã chiến thắng, và cuối cùng, sẽ loại trừ nó. Nhìn thấy tội lỗi, Cơ-đốc nhân không bi quan vì người ấy biết sẽ có ngày thực tại điên rồ vô nghĩa đang hủy phá điều tốt điều thiện sẽ tự tiêu diệt. Chúa Cứu Thế đã bảo đảm việc đó bằng chiến thắng của Ngài đối với điều ác trên toàn vũ trụ tại thập tự giá (xem CoCl 2:15); cuối cùng, khi Ngài tái lâm, Ngài sẽ diệt trừ nó.
Đến ngày đó, Cơ-đốc nhân mong được thấy tất cả những ràng buộc bên trong và chung quanh mình đều trở thành điều tốt lành, ích lợi lớn lao hơn cho mình, và càng khiến Đức Chúa Trời được vinh hiển. Cuối cùng việc ấy sẽ biện minh, sẽ báo trả cho sự thiện hảo và khôn ngoan của Đức Chúa Trời; vì đã để điều ác tung hoành quá lâu trong thế giới của Ngài.
HAI LOẠI ĐIỀU ÁC
Điều ác nghĩa là điều xấu với hậu quả tai hại hay phá hoại hoặc loại trừ điều tốt; điều thiện nghĩa là việc thực hiện một đời sống ngay lành, xứng đáng và vui thỏa. Như đã định nghĩa, điều ác mặc lấy hai hình thức. Trước hết, có sự xấu xa bên ngoài chúng ta, sự xấu xa của hoàn cảnh, 'hoạn nạn, sầu muộn, đói khổ, bệnh tật, và nhiều nghịch cảnh khác nữa'. Hoàn cảnh trở thành ác khi chúng đem đến cho chúng ta nhiều đau khổ, chán nản thất vọng hơn chúng ta có thể xoay xở để khiến nó trở thành lợi ích cho chúng ta. Thật ra, hoàn cảnh thường không phải là xấu. Beethoven điếc và nỗi đau khổ của sự cô đơn thành ra loại âm nhạc anh hùng; vô số những người tàn phế đã thực hiện được phẩm giá và sự thanh thản bất chấp sự đau đớn kinh niên của thể xác; và tác giả Thi thiên có thể nói: “Tôi đã bị hoạn nạn thật lấy làm phải, hầu cho học theo luật lệ của Chúa” (Thi Tv 119:71). Thế nhưng, chúng ta thường thấy, sự đau khổ khiến con người chỉ còn biết kêu la cho đến khi ngã xuống vì mỏi mòn, kiệt quệ, chắc chắn điều đó là xấu, là ác.
Thứ hai, có điều xấu, điều ác bên trong chúng ta, cái xấu cái ác của sự hư hoại. Đó là cái xấu của những kẻ xấu và của các thiên sứ sa ngã, cái xấu của kẻ tìm cách bộc lộ ra trong sự thất bại đạo đức và hành động lệch lạc, xấu theo quan điểm là thiếu điều tốt điều thiện, và theo một quan điểm khác là điều tốt điều thiện bị trở nên sai lầm như trong ma quỉ, trong A-đam, trong bạn, trong tôi. Làm thế nào và tại sao điều tốt điều thiện lại trở nên xấu nên ác, vượt quá những gì Kinh Thánh giải thích hoặc chúng ta có thể lãnh hội, nhưng sự kiện rất rõ ràng. Và nếu đối với loại điều ác thứ nhất chúng ta thụ động, phải chịu đựng nó, với loại ác thứ hai, chúng ta lại chủ động, lại tạo ra nó. Phao-lô nói: “Tôi làm điều dữ mình không muốn” (RoRm 7:19); và tất cả những ai thành thật cũng phải đồng thanh với ông: “Vâng, tôi cũng vậy”.
ĐỨC CHÚA TRỜI ĐẾN TIẾP CỨU
Các Cơ-đốc nhân không thể khinh thường điều ác ở chung quanh và trong họ, và cũng không được tự do để thử làm như vậy, vì họ đã được kêu gọi để đương đầu với điều ác và chiến thắng nó bằng điều thiện (RoRm 12:21). Nhưng câu ấy quả quyết điều ác không thể nào thắng hơn họ; và ở đây, một lần nữa, Bài Cầu Nguyện của Chúa lại đến với họ.
Chúa Giê-xu dạy chúng ta cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu mình 'khỏi điều ác'. Dẫu câu trong Hi văn ngụ ý nói 'ác' theo nghĩa tổng quát, hay 'kẻ ác', đó không phải là vấn đề quan trọng, tuy có lẽ nghĩa thứ hai thích hợp hơn ở đây. Câu ấy sẽ có nghĩa là 'xin cứu chúng tôi khỏi tất cả những điều ác trên đời, trong chúng tôi, nơi những người khác, trong Sa-tan, và các đạo binh của nó'; theo nghĩa thứ hai câu ấy sẽ là 'xin cứu chúng tôi khỏi Sa-tan, là kẻ đang tìm cách gây tàn hại cho chúng tôi, và khỏi mọi biện pháp lợi dụng nhằm mục đích ấy - Mọi sự không tin kính trên đời này, tất cả mọi tội lỗi của xác thịt chúng tôi, tất cả mọi điều ác thuộc linh'; cả hai cách hiểu, suy cho cùng cũng là một.
Vấn đề quan trọng là khi Chúa Giê-xu dạy chúng ta lời cầu nguyện này, Ngài ngầm ý hứa rằng nếu chúng ta muốn tìm cách để được giải cứu khỏi điều ác, chúng ta sẽ tìm được. Chính lúc chúng ta kêu lên: 'Xin cứu', tác động tiếp cứu của Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu ngay; sự tiếp trợ sẽ đến ngay để đối phó với bất cứ hình thức nào đe dọa chúng ta.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Được giải cứu khỏi điều ác: IICo 2Cr 1:3-11 12:1-10
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Hiện tại, Đức Chúa Trời đang làm gì đối với tội lỗi? Cuối cùng, Ngài sẽ đối phó với nó ra sao?
2. Điều gì quyết định hoàn cảnh xấu xây dựng hay đánh gục chúng ta? Đức Chúa Trời giải cứu ai khỏi điều ác, và tại sao?
NƯỚC VÀ QUYỀN
Âm nhạc có thể diễn tả tất cả các cảm xúc của con người thế nào, Bài Cầu Nguyện khuôn mẫu của Chúa cũng bao trùm toàn bộ các mối bận tâm mà người môn đệ là Cơ-đốc nhân phải đương đầu trong đời sống. Ca ngợi chúc tụng sự cứu chuộc chúng ta (Cha), tôn thờ sự siêu việt lớn lao của Đức Chúa Trời (ở trên trời); nhiệt thành sốt sắng tôn vinh Ngài (danh Ngài được (tôn) thánh), trông đợi ngày chiến thắng khải hoàn của Ngài (nước Ngài được đến), và dâng hiến cho Ngài (ý Ngài được nên), tất cả đều đã được diễn tả trong nửa phần đầu nhằm phân tích các yếu tố tôn thờ, hiến dâng, cảm tạ và khẩn xin, cả phần đầu đã được đề cập. Rồi tiếp đến nửa phần sau là phần khẩn xin, nói lên sự trông cậy của chúng ta vào Đức Chúa Trời để được cung cấp mọi nhu cầu vật chất (xin cho chúng tôi... đồ ăn đủ ngày), chúng ta ăn năn về những thất tín và thiếu lòng thương xót trong cách sống (xin tha tội... như chúng tôi cũng tha), và ý thức về sự yếu đuối của chúng ta trước các lực lượng của các kẻ thù thuộc linh (xin chứ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác). Cuối cùng, tiếp theo hình thức cổ truyền của sự cầu nguyện, chúng ta được hướng dẫn quay trở lại với việc ca ngợi chúc tụng.
Phần ca ngợi chúc tụng theo các cổ bản là phần kết thúc Bài Cầu Nguyện của Chúa, nhưng không tìm thấy trong các cổ bản được xem là tốt nhất. Tuy nhiên, đó là truyền thống tốt đẹp nhất! Nhưng phần ca ngợi chúc tụng (nghĩa là những hành động nhằm ca ngợi vinh quang, tôn vinh Đức Chúa Trời) xuất hiện xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh, và chúng ta thấy trong những phần trước sự ca ngợi dẫn đến sự cầu nguyện và ngược lại. Nhu cầu cảm thấy và được đáp ứng và lời ca ngợi tán tụng Đức Chúa Trời về Ngài là ai và làm gì là nguồn mạch phát sinh chính yếu hậu thuẫn vững chắc cho niềm hi vọng về những gì Ngài có thể và sẽ làm. Cho nên, càng ca ngợi chúc tụng Ngài, bạn càng được thêm sinh lực để cầu nguyện; và càng cầu nguyện, bạn sẽ càng quan tâm chú ý đến việc bạn phải ca ngợi chúc tụng.
LỜI CẦU NGUYỆN VÀ LỜI CA NGỢI CHÚC TỤNG
Lời cầu nguyện và lời ca ngợi chúc tụng giống như hai cánh chim: khi cả hai cùng hoạt động, bạn sẽ bay lên; khi có một phần không hoạt động, bạn sẽ bị buộc chặt vào mặt đất này. Nhưng loài chim không thể bị buộc chặt với mặt đất, cũng như Cơ-đốc nhân không thể không ca ngợi chúc tụng Đức Chúa Trời. Các vế 'ở trên trời' khi bắt đầu, và 'như trời' ở đoạn giữa là những chỗ dừng lại để những lời ca ngợi trong Bài Cầu Nguyện của Chúa tuôn chảy, và nếu phần ca ngợi chúc tụng để kết thúc này không có trên môi miệng Chúa Giê-xu, chắc chắn nó cũng phản ảnh điều vẫn có trong tâm trí Ngài.
Ở đây, lời ca ngợi chúc tụng được liên kết với lời cầu nguyện bằng liên từ 'vì', 'vì nước, quyền và vinh hiển...' Mối liên hệ về tư tưởng ở đây, là chúng ta cầu xin Cha chúng ta ở trên trời cung ứng lương thực, sự tha thứ, và sự che chở bảo vệ chúng ta bằng niềm tin quyết lớn lao vì chúng ta biết rằng Ngài ban những điều đó cho con cái Ngài, một mặt, trong khả năng của Ngài, và mặt khác, phù hợp với đặc tính Ngài đã bày tỏ ra khi đối xử với loài người - tức là sự vinh hiển Ngài. Do đó, đây là một trường hợp thật sự ca ngợi chúc tụng quyền năng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, đến với lời cầu nguyện để thêm sức cho chúng ta hầu thâu gặt được kết quả cho cả hai.
NƯỚC VÀ QUYỀN
Nước và quyền để tôn vinh Đức Chúa Trời trong lời ca ngợi chúc tụng là hai từ ngữ diễn tả cùng một ý nghĩ duy nhất liên kết với nhau (các nhà ngữ học cách kết hợp đặc biệt này là hendiadys, thường gặp trong cổ văn). Tư tưởng muốn nói lên, là quyền cai trị kiểm soát toàn năng. Nước được dùng như trong Thi Tv 103:19 “Nước Ngài cai trị muôn vật”, nói lên chủ quyền của Đức Chúa Trời trên cõi thọ tạo, đã được giả định trước trong lời khẩn xin nước Ngài theo nghĩa khác, là trật tự cứu chuộc đụng chạm tới mọi sự, hãy mau đến. Sa-tan, trong thí dụ đầu tiên về thế nào tội lỗi ấp ủ sự quỷ quyệt hút mất trí thông minh và làm rỉ sét, cùn nhụt tâm trí người ta, không hề chấp nhận Chúa là Vua theo nghĩa căn bản này, và sẽ bỏ lời ca ngợi chúc tụng này - và lẽ tất nhiên cũng chối bỏ tất cả những lời ca ngợi chúc tụng - cho đó là sai lầm; nhưng Cơ-đốc nhận biết rõ hơn và ca ngợi chúc tụng Đức Chúa Trời cách phải lẽ.
Quyền là chủ quyền thực sự để cai trị của Đức Chúa Trời; không phải là quyền độc tài độc đoán trắng trợn, như sức mạnh của một trận cuồng phong hay của một con voi chỉ biết giày xéo tất cả, hay của một tên độc tài điên rồ; nhưng là tấm lòng tốt bất khuất, thực hiện thành công các mục đích nhơn từ thương xót và yêu thương 'cho chúng ta và tất cả mọi người'. Đó là quyền mà Đức Chúa Trời có thể tỏ ra tốt lành thiện hảo với tất cả mọi người, để cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập, để khiến Chúa Cứu Thế Giê-xu từ kẻ chết sống lại (Eph Ep 1:19 và tt).
Sách Thi thiên công bố Đức Chúa Trời là nhà Vua đầy ân điển, bất khả chiến bại (chỉ kể các Thi Tv 47:1-9, 93:1-5, 97:1-12, 145:1-21), là phần trình bày 'nước và quyền' của phần ca ngợi chúc tụng này rõ rệt nhất. Xin hãy đọc các Thi thiên ấy, suy gẫm, ghi khắc các Thi thiên ấy vào lòng, vào trí bạn - và hãy tham gia câu lạc bộ hợp ca của Cơ-đốc nhân! “Hãy hát ngợi khen Đức Chúa Trời chúng ta; vì là việc tốt lành!” (Thi Tv 147:1)
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đức Chúa Trời ngự trên ngôi: Đaniên 4; Thi thiên 145
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Sự ca ngợi chúc tụng dẫn đến lời cầu nguyện và ngược lại có nghĩa gì?
2. 'Quyền cai trị kiểm soát toàn năng' là gì, và Đức Chúa Trời thực thi quyền ấy trên thế giới hiện nay như thế nào?
3. Quyền năng của Đức Chúa Trời giống như điều gì?

VÀ VINH HIỂN
Trong Tân ước, từ ngữ 'vinh hiển' gồm hai ý nghĩa kết hợp chặt chẽ với nhau, ý nghĩa này tạo ra và thay thế cho ý nghĩa kia. Ý nghĩa thứ nhất là tính cách đáng ca ngợi chúc tụng rõ rệt của Đấng Tạo Hóa, ý nghĩa thứ hai là lời ca ngợi chúc tụng do muôn loài thọ tạo. Ý nghĩa trước là sự vinh hiển Đức Chúa Trời vốn có, do Ngài chiếu tỏa ra, hoặc ban cho, hay đề cập điều Ngài đang ban cho. Vì khi do lòng biết ơn chúng ta ca ngợi chúc tụng Đức Chúa Trời là Đấng bởi ân điển Ngài đã ban phước cho chúng ta, đó là chúng ta tôn vinh Đấng cho đến nay vẫn làm chúng ta được vinh hiển, bằng cách tái tạo chúng ta theo hình tượng Chúa Cứu Thế (xem IICo 2Cr 3:18 Eph Ep 1:3 và đối chiếu RoRm 1:12 với 8:17, 30). Nhưng chính vì thế loài người tôn vinh Đức Chúa Trời luôn luôn là một điều gì vinh hiển, trong khi sự vinh hiển mà Đức Chúa Trời bày tỏ cho loài người thường nhằm kêu gọi họ hãy ca ngợi chúc tụng Ngài.
SỰ VINH HIỂN THẤY ĐƯỢC
Trong Cựu ước, Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển Ngài dưới hình thức tiêu biểu có thể nhìn thấy được, là một vầng ánh sáng khiến người ta kính sợ (về sau, Do-thái giáo gọi là shekinah: vinh quang của Đức Giê-hô-va). Đây là dấu hiệu của sự hiện diện đầy phước hạnh của Ngài cả trong đền tạm lẫn trong đền thờ (XuXh 40:34 IVua 1V 8:10 và tt). Tuy nhiên, sự mặc khải thiết yếu và còn mãi của vinh quang Đức Chúa Trời được bày tỏ bằng các hành động lớn lao của sự đoán phạt phải có và tình yêu thương dù không xứng đáng để được ban cho và trong 'danh' Ngài - không phải chỉ là cái nhãn hiệu suông như tên của chúng ta, nhưng là việc bày tỏ bản tính và đặc tính của Đức Chúa Trời. Giê-hô-va (hay như các học giả hiện đại dịch từ ngữ ấy là Đức Yahweh) có nghĩa là “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu' (XuXh 3:13-15), gọi 'danh' Đức Chúa Trời một cách đầy đủ nói lên thật chính xác Ngài là ai và là Đấng như thế nào. Câu này được nói khi Môi-se yêu cầu Đức Chúa Trời: “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài” Đức Chúa Trời đã đáp lời ông không phải chỉ bằng cách cho ông thấy sự hiển hiện của Ngài, mà còn tuyên bố rằng: “danh ta là 'Giê-hô-va'...Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực, ban ơn đến ngàn đời, xóa đều gian ác tội trọng và tội lỗi nhưng chẳng kể kẻ có tội là vô tội...” (XuXh 33:18-34:7). Đặc tính đạo đức này là sự vinh hiển chính yếu của Đức Chúa Trời.
Cho nên khi Ngôi Lời trở nên xác thịt trong sự thấp kém, sau khi đã lột bỏ sự vinh hiển từng có chung với Đức Chúa Trời từ trước buổi sáng thế, ánh hào quang sáng chói shekinah ấy được giấu kín, ngoại trừ một lần duy nhất lúc Chúa biến hình. Nhưng các môn đệ của Chúa Giê-xu đã có thể làm chứng rằng: “chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển Ngài” là sự vinh hiển của thần tánh Ngài “đầy ân điển và lẽ thật” (GiGa 1:14 đối chiếu 17:5 Phi Pl 2:7). Vừng hào quang đầy vinh hiển shekinah thuộc thể đã vĩ đại rồi, nhưng vinh quang đạo đức của tình yêu thương cứu chuộc của Đức Chúa Trời lại còn vĩ đại hơn, những người hiện được Đức Chúa Trời soi sáng để thông hiểu Phúc âm chưa hề được thấy vinh quang của hiện diện Đức Chúa Trời trong thời Cựu ước shekinah, nhưng họ lại được chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Chúa Trời trên gương mặt của Chúa Cứu Thế (IICo 2Cr 4:6).
VINH HIỂN ĐƯỢC BAN CHO
Trong phần ca ngợi chúc tụng theo truyền thống của Bài Cầu Nguyện của Chúa, chúc tụng theo truyền thống của Bài Cầu Nguyện của Chúa, chúng ta quy mọi vinh hiển cùng với vương quyền cho Đức Chúa Trời đời đời, là trước nhất, chúng ta thưa với Đức Chúa Trời (và cũng tự nhắc nhở chúng ta) rằng Ngài, Đấng Tạo Hóa và Cứu chuộc chúng ta, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, đáng tôn vinh trong mọi việc Ngài làm, nhất là trong các hành động ân điển 'chúng tôi tạ ơn Ngài vì sự vinh hiển vĩ đại của Ngài'; và thứ hai, chúng ta tự nguyện hiến thân dâng để thờ phượng và tôn thờ Ngài về tất cả mọi đều đó ("Sáng danh Đức Chúa Trời trên các từng trời rất cao") hiện nay và mãi mãi. Như vậy, phần ca ngợi chúc tụng, như chính đời sống Cơ-đốc nhân cũng sẽ làm như vậy, khi lời cầu xin cùng dừng lại với đời sống này, nhiệm vụ đầy phước hạnh là tôn vinh Đức Chúa Trời vẫn tồn tại đời đời.
VINH HIỂN VỀ AI?
Bây giờ, hãy trắc nghiệm phẩm tính thuộc linh của chúng ta.
Nguyên tắc của tội lỗi loài người (là hình tượng của ma quỉ trong con người) là: vinh hiển không thuộc về Đức Chúa Trời, nhưng về tôi. Cho nên, chúng ta phô trương những gì chúng ta tưởng là vinh hiển của chúng ta, do đó, ưa chuộng những ai nhìn xem và đề cao, tôn vinh chúng ta. Đây là một phương diện của tính kiêu ngạo trong chúng ta; đó là hư vinh. Những người thích hư vinh hay phô trương những nét đẹp, thân hình, y phục, tài năng, địa vị, thế lực, nhà cửa, tri thức, những bà con thân thích, hay bất cứ điều gì họ lấy làm hãnh diện nhất, trông mong được thiên hạ hoan hô tán thưởng, và cảm thấy oán ghét, bị tổn thương nếu có ai phản đối họ hoặc được thiên hạ chú ý, đề cao hơn họ.
Nhưng Cơ-đốc nhận biết rằng hư vinh chỉ là sự dối trá, vì nó cho rằng chính chúng ta đáng được khen ngợi, ngưỡng mộ vì bản thân chúng ta, trong khi sự thật không phải như vậy. Cơ-đốc giáo dạy chúng ta - không phủ nhận những phẩm chất mà chúng ta biết rất rõ là mình có - thừa nhận tất cả những gì chúng ta có đều là ân tứ Đức Chúa Trời ban cho, cho nên chính Ngài mới là Đấng đáng được ca ngợi chúc tụng và chiêm ngưỡng, chớ không phải là chúng ta.
Cách thử nghiệm là bạn hãy tự hỏi bạn vui hay buồn đến mức độ nào khi Đức Chúa Trời được ca ngợi chúc tụng, còn bạn thì không, và ngược lại, khi chính bạn được khen ngợi tán thưởng, còn Đức Chúa Trời lại không. Cơ-đốc nhân trưởng thành không vui về sự vinh hiển người ta dành cho mình, nhưng người ấy lấy làm khó chịu khi người ta không chịu tôn vinh Đức Chúa Trời. Một nhân vật Thanh giáo đã quá cố, ông Richard Baxter, nhà văn lỗi lạc vào thời của ông, đã nhỏ nhẹ trả lời khi có các khách đến thăm khen ngợi quyển sách mà ông đã viết: 'Tôi chỉ là cây viết trong tay Đức Chúa Trời; mà một cây viết thì cần gì được khen ngợi?'. Điều đó chứng minh tinh thần của người đã trưởng thành, họ muốn lúc nào cũng reo to lên: 'Hãy tôn vinh Đức Chúa Trời, vì sự vinh hiển thuộc về Ngài, và chỉ thuộc về một mình Ngài mà thôi!'
Trắc nghiệm này nói gì về bản thân chúng ta?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Con đường đến việc ca ngợi chúc tụng Đức Chúa Trời:
RoRm 11:33-36 Eph Ep 3:20 ITi1Tm 6:13-16 HeDt 13:20 Giu Gd 3 KhKh 1:4-7
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Kể ra hai nghĩa của từ ngữ 'vinh hiển', và mối liên hệ giữa chúng.
2. Đặc tính của Đức Chúa Trời có liên quan gì với sự vinh hiển Ngài?
3. Khả năng của chúng ta để thấy được vinh quang của Đức Chúa Trời có bị hạn chế vì vinh quang sự hiện diện shekinah của Đức Chúa Trời thời Cựu ước không còn nữa hay không? Tại sao có và tại sao không?

A-MEN
'A-men' có nghĩa gì khi chúng ta nói sau Bài Cầu Nguyện của Chúa hay bất luận một bài cầu nguyện nào khác?
VÂNG, ĐÓ LÀ SỰ THẬT
'A-men' là một từ ngữ Hi bá lai được dùng trong Cựu ước và trong sự thờ phượng trong nhà hội, rồi được chuyển thành cách nói của Cơ-đốc giáo. Trong Kinh Thánh, không những nó chỉ được dùng để chấm dứt bài cầu nguyện, chứng tỏ ý chấp nhận những việc chẳng hạn như các lịnh truyền của vua Đa-vít (IVua 1V 1:36) và những lời ngăm đe của Đức Chúa Trời (Dan Ds 5:22 PhuDnl 27:17-26). Nghĩa gốc của nó là 'thật, cả quyết, vững vàng, chắc chắn', nhấn mạnh cho tiếng nói 'Vâng' đối với những gì vừa được nói ra, 'dứt khoát là được', 'quả thật là như vậy'.
'A-men' có thể đi trước hoặc theo sau một câu nói (công thức 'quả thật' của Chúa Giê-xu đã xuất hiện hơn năm mươi lần; 'quả thật ta nói...' là 'a-men' trong nguyên văn). Tuy nhiên, dầu thế nào đi nữa, nó cũng nhấn mạnh câu nói, bảo rằng đây là một câu nói quan trọng mà người nói ra hoàn toàn tự nhận là của mình. Trong IICo 2Cr 1:20, Phao-lô đề cập việc Cơ-đốc nhân nói 'a-men' đối với các lời hứa của Đức Chúa Trời, làm như vậy tức là tôn vinh Ngài là Đấng chân thật và đáng tin cậy trong những lời Ngài phán; “Đức Chúa Trời, danh Ngài là A-men” và “Ngài là Đức Chúa Trời, và các lời của Ngài là chơn thật” (EsIs 65:16 theo bản NEB; IISa 2Sm 7:28). Trong ICo1Cr 14:16, ông cũng dạy các CơĐốc c nhân nói 'A-men' sau những lời cầu nguyện cảm tạ nói lên khi thờ phượng chung. Hiệu quả của việc nói 'A-men', khẳng định nó được nói ra bằng cả tấm lòng lẫn lời nói, là tự kết hợp mình với những lời hứa lẫn lời cầu nguyện, khiến tất cả đều trở thành của riêng mình.
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA BẠN?
Phần ca ngợi chúc tụng theo truyền thống dạy chúng ta kết thúc bài cầu nguyện bằng 'A-men' như vậy là phải. 'A-men' (tốt nhất là nên nói to lên cách quả quyết) là lời xưng nhận cuối cùng về những gì chúng ta ngụ ý muốn nói và hoàn toàn đồng nhất hóa với thái độ, hi vọng và các mục tiêu mà lời cầu nguyện vừa diễn tả, cho nên cách thích hợp nhất để kết thúc những bài nghiên cứu ngắn về cuộc đời (và hơn thế nữa) để nắm vững, là bằng một bản duyệt xét lại các tiết mục chính đã được đề cập; cho nên tôi xin hỏi:
Bạn có đồng ý tin cậy Chúa Cứu Thế Giê-xu làm Cứu Chúa mình, tin rằng qua Ngài, Đức Chúa Trời cũng là Đức Chúa Trời của bạn, và thừa nhận rằng toàn thể các Cơ-đốc nhân đều là anh em của bạn trong gia đình của Đức Chúa Trời, như câu 'Cha chúng tôi' diễn tả không?
Phải chăng việc tôn thánh danh Đức Chúa Trời trong và qua bạn, dầu có phải trả giá đắt tới đâu, cũng đều nhằm mục đích hướng dẫn, kiểm soát cả cuộc đời của bạn? Bạn có muốn nhìn thấy Đức Chúa Trời chiến thắng khải hoàn trong nước Ngài, và thấy những điều chống lại sự trọn vẹn của Ngài phải chấm dứt không?
Bạn có sẵn sàng chịu khổ vì nước ấy, nếu cần, để trở thành một thành viên, một phương tiện đưa nước ấy vào đời sống, trong những hoàn cảnh các cửa đóng lại chống Đức chúa Trời không?
Bạn có vui vẻ nhận mạng lịnh theo ý Chúa truyền làm luật lệ cho đời sống mình, và các biến cố xảy ra theo ý Chúa cho tương lai mình, vì biết (bởi đức tin) rằng tất cả đều là vì lợi ích tốt nhất cho bạn không?
Có điều gì là mạng lịnh và ý chỉ Đức Chúa Trời mà bạn lại trốn tránh, và tự bào chữa cho mình còn nhiều mạng lịnh khác nữa mà mình phải tuân giữ? Nếu có, bây giờ bạn sẽ giải quyết ra sao?
Trừ phi Đức Chúa Trời hành động để cung cấp các nhu cầu hằng ngày cho bạn, để tha các tội hôm nay cho bạn, để bảo vệ bạn khỏi những cám dỗ của ngày hôm nay, nếu không bạn phải bị chết mất, bạn có nhận thấy và biết như vậy không?
Bạn có biến điều đó thành một vấn đề của lương tâm để sẽ chẳng bao giờ ấp ủ hận thù, cay đắng với bất cứ ai, nhưng luôn luôn tỏ lòng thương xót tha thứ, vì Đức Chúa Trời đã luôn luôn tỏ lòng thương xót tha thứ đối với bạn không?
Cho đến hôm nay, có ai là người bạn từ chối không chịu tha thứ vì điều người ấy làm cho bạn không? Chính lúc này, bạn có bằng lòng cầu nguyện xin Chúa giúp bạn thay đổi thái độ, để làm hòa với người ấy không?
Bạn có tập thói quen cảnh giác và cầu nguyện để khỏi sa vào chước cám dỗ không? Bạn có tập thói quen đó ngay bây giờ không?
Bài cầu nguyện của Chúa có thật sự ở trong lòng bạn không? Bạn có thành thật khi nói 'A-men' vào cuối bài cầu nguyện ấy không? 'Ôi lạy Đức Chúa Trời, xin tẩy sạch lòng chúng con; xin chớ cất Thánh Linh Ngài khỏi chúng con. Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện bằng cách dạy chúng con biết phải sống như thế nào; xin nhơn danh Chúa Giê-xu; A-men'
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Các nguy cơ của việc không thành thật:
TrGv 5:1-6 Cong Cv 5:1-11
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. 'A-men' có nghĩa gì?
2. Tại sao Đức hứa Trời được gọi là 'Đức Chúa Trời, danh Ngài là A-men'?
3. Khi nói 'A-men' sau Bài Cầu Nguyện của Chúa, điều đó đòi hỏi chúng ta những gì?

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG: MƯỜI ĐIỀU RĂN
(XuXh 20:1-17)
“1 Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán mọi lời này, rằng: 2 Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Êdíptô, là nhà nô lệ. 3 Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác. 4 Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống như những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp này, hoặc trong nước dưới đất. 5 Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giêhôva Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhơn tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, 6 và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến và giữ các điều răn ta. 7 Ngươi chớ lấy danh Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Đức Giêhôva chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi. 8 Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh. 9 Ngươi hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày; 10 nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ của Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi: trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai tớ gái, súc vật của ngươi, hoặc khách ngoại bang ở trong nhà ngươi, đều chớ làm công việc chi hết; 11 vì trong sáu ngày Đức Giêhôva đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật ở trong đó, qua ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ: vậy nên Đức Giêhôva đã ban phước cho ngày nghỉ và làm nên ngày thánh. 12 Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi ban cho. 13 Ngươi chớ giết người. 14 Ngươi chớ phạm tội tà dâm. 15 Ngươi chớ trộm cướp. 16 Ngươi chớ nói chứng dối cho kẻ lân cận mình. 17 Ngươi chớ tham nhà kẻ lận cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi”.
BÀI TỰA
Xe hơi là những công trình phức tạp do con người chế tạo, cấu tạo bởi cả ngàn thành phần, nó rất dễ bị hư hỏng. Tuy nhiên, quyển sách hướng dẫn của nhà chế tạo cho bạn biết phải bảo quản chiếc xe của bạn như thế nào để sử dụng tốt bằng tối thiểu công sức và nước mắt; và nếu bạn bảo quản sai lầm khiến nó bị hư hỏng, bạn không thể nói mình đã không được dặn dò, cảnh cáo trước. Với sự khôn ngoan chứa đựng trong quyển sổ tay sửa chữa của nhà chế tạo, người ta có thể sửa chữa chiếc xe, nhưng bao lâu bạn coi thường các chỉ dẫn của nhà chế tạo, thì bạn phải chờ đợi, trong rắc rối mà thôi.
Có thể dùng những chiếc xe hơi để vì sánh với các ông chủ của chúng. Chính chúng ta cũng được chế tạo cách kỳ diệu phức tạp về phương diện sinh vật lý, nhưng phức tạp hơn về các phương diện thuộc linh. Với chúng ta, cũng có một quyển sổ tay của nhà chế tạo - tức là bảng tóm tắt về cách sống được tìm thấy trong Mười Điều Răn. Với tư cách những con người, chúng ta sẽ tăng trưởng tươi tốt hay tàn lụi héo khô, và tánh tình chúng ta sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời hay giống như ma quỉ, tất cả đều tùy thuộc trực tiếp vào việc chúng ta có tìm cách sống theo Mười Điều Răn hay không. Phần còn lại của Kinh Thánh có thể gọi là quyển sổ tay sửa chữa của Đức Chúa Trời, vì nó nói lên Phúc âm ân điển tái tạo nhân tính đã bị tội lỗi hủy hoại, nhưng Mười Điều răn là kết tinh của cách ăn ở cư xử căn bản sẽ đem đến mãn nguyện, thỏa lòng, và đó chính là lối sống để ân điển Đức Chúa Trời cứu vớt và sửa chữa chúng ta .
Giả sử có người nói: “Tôi đã cố gắng coi trọng Mười Điều Răn và theo đó mà sống, nhưng đều như người bị sa lầy vậy. Mỗi ngày tôi đều thất bại về mộ điểm nào đó. vậy tôi phải làm sao?”. Câu trả lời là: Bây giờ bạn đã biết rõ sự yếu đuối rất dễ phạm tội của mình, hãy quay về với Đức Chúa Trời và Con Ngài là Đức Chúa Giê-Xu Christ, để được tha tội và quyền năng. Đấng Christ sẽ đưa bạn vào một đời sống mới, trong đó, ước vọng sâu xa nhất của bạn sẽ là noi theo con đường của Đức Chúa Trời, cho nên vâng lời Ngài sẽ không còn là một gánh nặng nữa. Người muốn lấy luật pháp làm luật lệ cho đời sống mình còn phải cầu nguyện và tìm cầu cho được Đấng Christ làm Cứu Chúa và là Nhà Vua cai trị mình nữa.
Trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã ban luật pháp cho chúng ta, cũng như chính tình yêu thương ấy cũng đã ban cho chúng ta Phúc âm và nếu không có Phúc âm chủ cho chúng ta thấy Đức Chúa Giê-Xu Christ là Cứu Chúa đời sống thuộc linh của chúng ta không thể được cứu vớt thế nào, cũng vậy, chúng ta sẽ không thể nào có được sức khỏe thuộc linh nếu không tìm cầu sức lực của Đấng Christ để tuân giữ luật pháp và để thực thi tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời và người lân cận, mà luật pháp đòi hỏi.
Giả sử tất cả mọi người đều nói: “Nhờ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, từ nay trở đi, mỗi ngày tôi sẽ sống theo Mười Điều Răn, sẽ dâng trọn đời tôi để tôn vinh Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài. Tôi sẽ chú ý đến tất cả những gì Ngài phán dạy. Mỗi tuần tôi đều sẽ đến nhà thờ để thờ phượng Ngài. Tôi sẽ tôn trọng đúng mức các bậc cầm quyền hiến định, sẽ tỏ lòng biết ơn tất cả những ai mình đã mang ơn nhiều nhất. Tôi sẽ không giết người, không thù ghét ai cả. Tôi sẽ không phạm tội tà dâm, không tự buông mình theo tham dục, hay khơi dậy lòng tham dục của người khác. Tôi sẽ không trộm cướp hay lìa bỏ con đường ngay thật trọn vẹn. Tôi sẽ không nói dối, lừa gạt ai cả. Tôi sẽ không ghen tị hay tham lam”. Nếu được như vậy, sinh hoạt cộng đồng sẽ thay đổi hẳn và các vấn đề quốc gia đại sự sẽ tan biến ngay. Đây là điều chúng ta cần phải cầu nguyện và làm việc lao khổ mới mong thực hiện được.
Giả sử tất cả các chi hội, các hội chúng đều nung đốt lòng nhiệt thành vì Đức Chúa Trời, và vì sự thánh khiết cá nhân, vì sự công chính của quốc gia dân tộc - chúng ta sẽ được phục hưng. Sự phục hưng do Đức Chúa Trời thăm viếng các cộng đồng, và sức mạnh đạo đức, tinh thần của nó sẽ chẳng có gì sánh kịp. Khi Đức Chúa Trời đánh thức Hội Thánh Ngài, thì quyền năng thanh tẩy phi thường từ đó tuôn trào ra sẽ thay đổi trình độ tinh thần và đạo đức của một xã hội như chẳng có điều gì khác có thể được. Chẳng có gì để nghi ngờ chúng ta đang cần được phục hưng; cũng chẳng có gì để nghi ngờ muốn được phục hưng, chúng ta cần phải cầu nguyện.
Nơi nào thiên hạ không chịu tôn trọng các chân lý tuyệt đối của luật đạo đức, người ta đã thôi tôn trọng chính mình và tôn trọng lẫn nhau; nhân tính bị biến dạng, xã hội sẽ sa vào sự suy thoái giết người bằng việc lợi dụng khai thác lẫn nhau và tự tỏ ra dễ dãi, khoan dung với chính mình. Sống vào những ngăm cuối thập niên bảy mươi, tất cả chúng ta đều biết rõ căn bệnh ấy. Thiết tưởng chúng ta rất cần sauy xét xem phải làm gì để chữa trị. Mong rằng Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta để nhận thấy viễn ảnh này có sức thu hút, hấp dẫn mình.
MẪU MỰC VỀ CÁCH ĂN Ở CƯ XỬ
Sống có nghĩa là quan hệ với Đức Chúa Trời, người ta và mọi sự vật. Nếu bạn duy trì được mối quan hệ phải lẽ, đời sống bạn sẽ vui vẻ, nhưng nếu trái lại, nó sẽ là một gánh nặng cho bạn. Yêu đời là điều tự nhiên, còn chống lại với tự nhiên, là chúng ta muốn chận đứng nó lại, muốn cho mình thôi sống.
Thế nhưng hiện nay, cũng như lúc Cơ Đốc giáo mới ra đời, nhiều người vẫn kinh nghiệm về cuộc đời như một cảnh khổ vô nghĩa, khiến họ thật sự nghĩ đến chuyện tự tử. Đã có gì trục trặc? Rất có thể do các mối quan hệ. Tuy sự sa sút tinh thần có thể do nguyên nhân vật chất và cần được chữa trị về phương diện vật lý, các mối quan hệ rắc rối mất trật tự thường ít ra cũng là một phần của sự rối loạn, muốn chữa lành hoàn toàn, chúng phải được sửa lại cho đúng, cho phải.
Công việc này gồm có những gì? Những người làm công tác xã hội biết rõ việc thiếu mất các mối quan hệ có ý nghĩa giữa con người và con người với nhau đã hủy hoại tinh thần như thế nào, nên đã cố gắng giúp đỡ người ta ở điểm ấy. Tuy nhiên, nếu chỉ có thế mà thôi; việc chữa trị vẫn chưa đạt phân nửa thành công. Niềm vui thật sự chỉ đến qua các mối quan hệ có ý nghĩa với Đức Chúa Trời, được nếm trải tình yêu thương Ngài và bước đi theo đường lối của Đấng Christ. Đây mới thật là niềm vui sống, là đời sống ngọt ngào và tốt lành thật sự.
ĐIỀU KHÔN NGOAN BỊ LÃNG QUÊN
Vậy mẫu mực về đời sống trên thế gian này cho mọi thời đại đều được Đức Chúa Trời vạch rõ trong Mười Điều Răn và ban cho dân Do thái qua Môise trên núi Sinai khoảng mười ba thế kỷ trước Đấng Christ. Các Cơ Đốc nhân trong quá khứ đã thấy các điều răn ấy là “Sách Chỉ Nam về Đạo đức học đầy đủ cho loài người” (The Plain Man's Guide to Ethics, nhan đề một quyển sách chú giải Mười Điều răng của William Barclay). Họ đã thấy đúng. Thế giới ngày nay (và cả đến Hội Thánh ngày nay nữa) đã quên mất một phần lớn các điều răn ấy (bạn có đọc thuộc lòng được Mười điều răn không?). Đó chính là sự điên dại đưa chúng ta đến chỗ bị diệt vong. Vì ở đây, là sự khôn ngoan dưới hình thức hết sức cô đọng, chúng ta có cần.
Vì Kinh Thánh gọi Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời là “luật pháp”, chúng ta vẫn cho rằng các điều răn ấy như là luật lệ, một hình thức của một bộ luật cho biết những gì nên làm và không nên làm nhằm hạn chế quyền tự do cá nhân vì cớ trật tự công cộng. Nhưng cách ví sánh như vậy là sai. Từ ngữ Hi bá lai Torah (nghĩa là luật) có nghĩa là lời giáo huấn mà người làm cho làm mẹ tốt dạy cho con cái mình. ChCn 1:8 và ChCn 6:20 thật sự sử dụng từ ngữ “torah” theo nghĩa là lời của bậc cha mẹ dạy dỗ con cái.
Cứ nghĩ rằng tất cả những lời lẽ mà một người khôn ngoan dùng dạy dỗ con trai mình trong ChCn 1:8-8:36 đều là những lời mà chính Cha chúng ta trên trời dạy bảo chúng ta (mà quả thật là như vậy, như trong câu nói rất đúng của Augustine “những gì Kinh Thánh nói, tức là Ngài nói"). Như vậy, bạn sẽ có được một ý niệm đúng về bản tính và mục đích của luật pháp Đức Chúa Trời. Sở dĩ cần có luật pháp, không phải nhằm cản trở con người tự bộc lộ chính mình (tuy có người nghĩ như vậy - vì trẻ con ghét kỷ luật) nhưng là nhằm chỉ dẫn chúng ta con đường tốt đẹp nhất. Luật pháp của Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, được diễn tả bằng tình yêu thương của Đức Chúa Trời, với tư cách là Cha chúng ta.
THẤP KÉM HƠN CƠ ĐỐC GIÁO?
Có người đọc Cựu Ước như những lời đoán mò của thời sơ khai, rồi Tân Ước đã xóa bỏ đi. Nhưng “Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy..."(HeDt 1:1), trong số đó, Môise là nhà tiên tri vĩ đại nhất (xem PhuDnl 34:10-12) và Mười Điều răn của Ngài được ban bố qua trung gian Môise, đưa ra một định chuẩn đạo đức và thuộc linh cho đời sống, không phải đãi bị uy quyền của Đức Chúa Trời đẻ bẹp, nhưng là đề cao đời đời. Xin chú ý đến luật pháp theo hai phương diện trong tình yêu thương Chúa Giê-Xu, tóm tắt Mười Điều Răn của Môise nhưng do chính Đức Chúa Trời soạn thảo và truyền dạy rất công phu (vì đó chính là các bộ luật trong Ngũ Kinh Môise). “Hãy yêu mến Đức Chúa Trời ngươi ” vốn được rút ra từ PhuDnl 6:5, “hãy yêu thương ngươi lân cận” được rút ra từ LeLv 19:18.
Thiết tưởng không nhấn mạnh quá đáng nếu bảo rằng lời dạy dỗ về luân lý đạo đức của Cựu Ước (xin phân biệt với mặc khải về ân điển của Cựu Ước) không hề thua kém lời dạy dỗ về luân lý đạo đức của Tân Ước, đừng nói chi đến cách định chuẩn theo quy ước của thời đại chúng ta. Những hành động dã man bất kể luật pháp về mặt tình dục, việc bạo động, bóc lột, các phương pháp làm ăn bóp hầu thắt họng, đấu tranh giai cấp, khinh thị gia đình và những việc tương tự như vậy chỉ được xã hội đời nay chuẩn nhận mà thôi. Điều người ta cho là Cựu Ước của thời bán khai và đặc biệt Mười Điều Răn đã xưa đến 3000năm nay rồi, là những thành lũy để chống lại những chuyện như thế.
Nhưng (bạn sẽ nói) phải chăng chủ trương như vậy là đặt Cựu Ước lên trên Đấng Christ? Làm như vậy có đúng không? Chắc chắn là những lời dạy dỗ có trước Ngài đến một thiên niên kỷ cộng với một phần tư thiên niên kỷ nữa phải kém hơn lời dạy dỗ của Ngài chứ? Chắc chắn các Điều Răn quá tiêu cực, luôn luôn nói: “Chớ, đừng...”? Chắc chắn là chúng ta phải tìm các định chuẩn cho Cơ Đốc giáo ở chỗ khác chứ? Những thắc mắc đó rất phải lẽ. Nhưng có một câu trả lời song phương:
Thứ nhất, trong Bài giảng trên núi (Mat Mt 5:17) Chúa Giê-Xu phán rằng Ngài đến không phải để phá, nhưng là để làm trọn luật pháp; nghĩa là để thực thi và giúp người khác thực thi tất cả những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi trong Mười Điều răn. Điều Chúa Giê-Xu công kích, đả phá, không đến nơi đến chốn, chớ Ngài không phá chính luật pháp (Mat Mt 5:21-48 15:1-9 v.v..). Bằng cách giải nghĩa luật pháp đúng, thật hơn, Ngài đã thật sự tái công bố luật pháp. Chính Bài giảng trên núi gồm các chủ đề lấy từ Mười Điều Răn, rồi được triển khai trong bối cảnh của Cơ Đốc giáo.
Thứ hai, hình thức tiêu cực của các Điều Răn ẩn tàng những ngụ ý tích cực. “Nơi nào một tội bị cấm đoán, có lịnh truyền phải làm một bổn phận trái ngược lại” (sách Yếu lý Weshminster lớn hơn, câu hỏi 99). Hình thức tiêu cực cần thiết tại Sinai (cũng như tại tây phương ngày nay) để uốn nắn tình trạng bất pháp phổ biến đang đe dọa cả tình hình tin kính lẫn sinh hoạt quốc gia. Nhưng nội dung tích cực chỉ vào Đấng Christ - hết lòng, hết ý, hết sức yêu mến Đức Chúa Trời, và yêu người lân cận như bản thân - là điều rất rõ ràng ở đây, như chúng ta sẽ thấy.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Đấng Christ và luật pháp: Mat Mt 5:17-48 12:1-14 15:1-9 22:34-400
Một nếp sống mới cho những con người mới: Eph Ep 4:17-5:14
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao việc quan hệ quan trọng trong đời sống chúng ta, và mối liên hệ với Đức Chúa Trời có công dụng gì?
2. Tác giả ngụ ý nói gì khi bảo rằng Chúa Giê-Xu “tái ban hành luật pháp”?
3. Luật pháp có hình thức của một loạt những điều cấm đoán, nhưng lại được cho là có nội dung tích cực chớ không phải tiêu cực. Hãy giải thích điều này.

TÔI VỚI BẠN
Về các mối liên hệ cấu thành cuộc đời chúng ta, một số có tính cách riêng tư, cá nhân, một số khác không như vậy. Mối liên hệ cá nhân, là liên hệ với một chủ thể là một cá nhân, hữu ngã, một “anh” (trong Anh văn là you, nhân xưng đại danh từ ngôi thứ hai, có thể dịch là: bạn, ông, bà, bác, chú, cô, dì, anh, chị, em, v.v...) xưng “tôi” khi ngỏ lời với chúng ta. Một mối liên hệ phi ngã, là sự liên hệ với một đối tượng phi ngã, một đồ vật, một “cái đó”. Thí dụ, các mối liên hệ với chúng ta với những chiếc xe hơi, những ngôi nhà, những lò sưởi, những máy đánh chữ là phi ngã, dầu có khi chúng ta đặt cho chúng những tên gọi thân mật; chúng ta sử dụng chúng như những tiện nghi, những phương tiện để tự bộc lộ chính mình, hành động như vậy là phải lẽ. Nhưng đối xử với một con người như vậy là sai, và tất nhiên có tác dụng phá hoại, vì con người không chấp nhận bị đối xử như đồ vật. Con người có giá trị tự thân và là cứu cánh của chính mình, phải được tôn trọng như những con người. Chớ không thể bị lợi dụng, như những đồ vật để đem đi cầm, đi thế làm của tin.
Được thừa nhận tích cực như vậy, con người có những đòi hỏi. Họ muốn thông cảm muốn giao lưu tiếp xúc với chúng ta, và đòi hỏi chúng ta phải cảm thông, phải giao lưu tiếp xúc họ để đáp lại. Trong các mối liên hệ riêng tư, cá nhân, hữu ngã giữa những con người với nhau, mỗi người phải yêu thương, tôn trọng và phục vụ tha nhân, và đáp lại, “có qua có lại mới toại lòng nhau” là quy luật của sự sống. Trong cái thế gian đã sa ngã này, khi mà bạn quá thường là ông thần (trời) của bạn, còn tôi là ông thần (trời) của tôi, người ta rất ít khi có liên hệ tiếp xúc (theo đúng nghĩa tốt đẹp của danh từ ấy) với nhau, kể cả ngay trong gia đình và với những người vẫn gọi nhau là bạn; những mối liên hệ như thế vẫn chưa phải là riêng tư, cá nhân, hữu ngã (personal) đúng mức; chúng ta vẫn lợi dụng nhau, chẳng xem nhau ra gì một cách hết sức đáng sợ”. Chẳng có ai đối xử với tôi như con người cả, chẳng có ai quan tâm chăm sóc đến tôi” là câu nói tỏ ý than phiền rất thường nghe trong thời đại của chúng ta ngày nay, nhưng vấn đề của nó xưa công bằng với lịch sử nhân loại.
CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI
Nhưng mối liên hệ giữa Cơ Đốc nhân với Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, là một mối liên hệ riêng tư, hữu ngã, một vấn đề giữa “Tôi-với-Ngài” từ đầu chí cuối. Với một Cơ Đốc nhân Đức Chúa Trời không phải là một lực lượng nào đó trong vũ trụ để thúc ép (như với một số người), không phải là “một cái gì đó” vô hạn vô biên, chẳng đòi hỏi gì ở mình hơn là ông thần đèn đòi hỏi nơi anh chàng Aladin. Các Cơ Đốc nhận biết rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi mình vào mối liên hệ hai chiều của tình yêu thương và phục vụ, của việc lắng nghe và đáp lại cho nhau, của việc đòi hỏi, ban cho, tiếp nhận và chia xẻ cho nhau từ cả hai phái. Các Cơ Đốc nhân học biết được điều đó nhờ theo dõi và lắng nghe Đức Chúa Trời nhập thể trong các câu chuyện trong Phúc âm, nhờ ghi nhận những lời mời gọi, truyền phán và hứa hẹn Đức Chúa Trời đã phán qua các nhà tiên tri và các sứ đồ. Và cái công thức về Mười Điều Răn được nhấn mạnh đến hai lần (XuXh 20:1-17 và PhuDnl 5:6-21) đã đặc biệt vạch rõ điều đó.
Vì các Điều Răn là bản chiếu chỉ Đức Chúa Trời ban bố cho loài người, báo cho họ biết rằng họ được yêu thương và cứu rỗi, là những con người mà Ngài nói chuyện bằng cách xưng “Ta-và-(các) ngươi” ở từng điểm một. “Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi...ngươi chớ...”. Mười điều chỉ dẫn, thể hiện ý định của Đức Chúa Trời muốn loài người phải sống như thế, được trình bày ở đây như các phương tiện để duy trì mối liên hệ do sự cứu chuộc đã được ban cho do ân điển. Và với các Do thái tại núi Sinai, thì giữ luật pháp (nghĩa là đáp ứng các đòi hỏi đối với Đức Chúa Trời chúng ta, là các điều răn 1-4, và đối với người lân cận chúng ta, là các điều răn 5-10) không nhằm chinh phục Đức Chúa Trời khiến Ngài phải ngưỡng một, phải mắc nợ chúng ta, nhưng là hình thức và là bản chất của lòng biết ơn cá nhân, đáp lại tình yêu thương của Ngài.
Chúng ta đã nói về Đấng Tạo Hóa mình dường như Ngài là một con người, như người Do thái, người Hồi giáo và người của Giáo hội Thống nhất vẫn cho là như vậy; nhưng đã đến lúc phải vạch rõ rằng các Cơ Đốc nhận biết Đức Chúa Trời có ba ngôi (persons), và cũng biết rằng sự thông công (fellowship, cũng có thể dịch là việc tiếp xúc thân mật như bạn thân thiết với nhau) với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con qua trung gian là Đức Thánh Linh với tư cách tội nhơn đã được cứu rỗi họ được kêu gọi thực hiện, theo đúng kiểu mẫu của việc Đức Chúa Con thông công với Đức Chúa Cha theo như cách Ngài đã bày tỏ cho thấy trong đời sống trên đất này của Ngài. Cách Chúa Giê-Xu đã làm, là trung thành, và tận hiến hết lòng đối với Cha Ngài. Giờ đây, thái độ đối với cả Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con (và dĩ nhiên là với Đức Thánh Linh nữa, trừ việc chúng ta không thể đối xử với Đức Thánh Linh một cách trực tiếp như vậy) đó, cũng phải là thái độ của chúng ta. Như vậy, các mối liên hệ yêu thương với Ba Ngôi Đức Chúa Trời phải rập mẫu mối liên hệ yêu thương trong chính Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chẳng hề có mối ràng buộc riêng tư, giữa người với người nào chúng ta được biết, lại có thể sâu đậm và có nhiều đòi hỏi hơn thế - hoặc (có thể nói thêm) là lại có hiệu quả biến đổi như thế.
Trong các mối liên hệ ngày càng phát triển của loài người, có năm yếu tố được đưa vào cho cả hai phía: chấp nhận, đòi hỏi, hứa hẹn, đẹp lòng, và khi cần thì biện giải, xin lỗi. Nhưng khi Đức Chúa Trời tiếp nhận chúng ta vào gia đình Ngài, Ngài tiếp nhận chúng ta qua sự chuộc tội của Đấng Christ; Ngài đòi hỏi chúng ta, phải sống để phục vụ Ngài; những “lời hứa quý báu và rất lớn “của Ngài cho chúng ta (IPhi 1Pr 1:4) bảo đảm chúng ta sẽ được bảo vệ và cung cấp cho mọi sự; và Ngài đích thân làm đẹp lòng chúng ta bằng cách dẫn dắt chúng ta vào sự vui vẻ trọn vẹn của Ngài (trong việc này chẳng có gì cần phải biện giải cả - tất cả đều toàn là ân điển vĩ đại và quang vinh)
Phần của chúng ta là tin nhận Đức Giêhôva Ba Ngôi làm Đức Chúa Trời mình; chúng ta cầu xin (đòi hỏi) và trông cậy nơi Ngài hằng ngày, về tất cả những gì chúng ta có cần; chúng ta thề nguyện trung tín vâng lời, và nhờ sức lực Ngài để giữ lời hứa của mình; chúng ta đặt tất cả các mục đích của mình vào việc làm đẹp lòng Ngài; và chúng ta luôn luôn thực thi việc ăn năn, bắt đầu bằng việc xưng tội và dứt khoát giải quyết bằng cách khước từ chúng và cầu xin được giải cứu khỏi chúng. Như chúng ta chờ đợi các nguyện vọng của những người mình yêu thương trong gia đình loài người của chúng ta được thành tựu thế nào, thì chúng ta cũng trông đợi lấy tình thương của Chúa của luật pháp để làm trọn luật pháp của Chúa y như vậy.
Người Pharisi vì tưởng rằng họ phục vụ Đức Chúa Trời bằng cách chăm chỉ phục vụ luật pháp cho nên họ đã phi ngã hóa (depersonalized) mọi mối quan hệ, và tự phi nhân hóa (deshumanized) chính họ; cho nên Chúa Giê-Xu đã nguyền rủa họ về việc ấy. Nhân danh Đức Chúa Trời để liên hệ tiếp xúc với Ngài và với tha nhân bằng tình yêu thương thật ra là tất cả những gì chúng ta có thể làm để phục vụ Ngài, như đã được vạch rõ trong Mười Điều Răn. Phải lấy tình yêu thương để đáp lại tình yêu thương, như Ngài tuyên bố: “Ta là...ngươi sẽ...” chính là bí quyết của việc giữ luật pháp. Chúng ta đã học biết được bí quyết này chưa?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Giữ luật pháp bằng tình yêu thương: Phục 11
Giữ luật pháp không bằng tình yêu thương: Math 23
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao lạm dụng, bóc lột người ta là sai lầm? Chúng ta đã làm những việc ấy trong những trường hợp nào?
2. Nhằm xác định cách đáp ứng của chúng ta đối với Mười Điều Răn, mối liên hệ “Ta-(các)- ngươi” giữa Đức Chúa Trời với chúng ta quan trọng như thế nào?
3. Bảo rằng người Pharisi “phi ngã hóa” các mối quan hệ và “phi nhân hóa” chính họ, có nghĩa gì?
LUẬT PHÁP VÀ TÌNH YÊU THƯƠNG
Hiện nay, Mười Điều Răn rất ít được lưu ý đến. Tại sao vậy? vì đó là luật pháp, gọi tên những việc đặc biệt nên làm ra và không nên làm. Thiên hạ không ưa luật pháp (đó là một trong những dấu hiệu chứng minh bản tính tội lỗi của chúng ta) và có dư luận rộng rãi cho rằng Cơ Đốc nhân không nên để cho luật pháp hướng dẫn mình, mà chỉ dành quyền ấy cho tình thương mà thôi.
ĐẠO ĐỨC TÙY THỜI
Ý niệm ngày nay người gọi là “đạo đức tùy thời”, xem Mười Điều Răn cùng với phần còn lại của những lời truyền dạy trong Kinh Thánh về cách ăn ở cư xử chỉ như một bộ luật - không phải do Đức Chúa Trời truyền dạy mà chỉ do con người nghĩ ra - có một thời được tôn trọng, và theo lệ thông thường mà nói, là một cách thế để bộc lộ tình thương. Nhưng các nhà chủ trương đạo đức học tùy thời đó bảo rằng mọi luật lệ đều có các ngoại lệ của chúng, và chúng ta cần vượt trên các Điều Răn là phải lẽ, nếu chúng ta nghĩ rằng làm như vậy mình sẽ thực hiện được nhiều điều hay hơn, tốt hơn cho thiên hạ. Cho nên, bất luận gặp hoàn cảnh nào, vấn đề đặt ra cũng là giữ luật pháp có thật sự phải là điều tốt nhất chúng ta có thể làm hay không. Như vậy, sinh hoạt đạo đức trở thành một cuộc hòa nhạc (jazz), trong đó, tôi có thể tự nghĩ cách diễn tả nào cho “độc đáo”, chớ không cần phải chơi đúng theo bản nhạc.
Người ta đã theo chủ trương của các nhà đạo đức tùy thời để biện minh cho các hành động của mình, từ tội tà dâm cho đến việc làm đảo chánh, viện lẽ mình đã hành động như vậy là vì chính nghĩa. Chủ nghĩa đạo đức tùy thời bảo rằng cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện.
MỘT PHẢN ĐỀ SAI
Nhưng phản đề tình-thương-hay-luật-pháp là một phản đề sai, cũng như hạ giá luật pháp là lệch lạc vậy. Tình thương và luật pháp không phải là đối thủ, nhưng là đồng minh của nhau, cùng họp nhau lại để trở thành cái trục của đạo đức chân chính. Luật pháp cần được tình yêu thương hướng dẫn, nếu không, chúng ta sẽ có những tên Pharisi đặt các nguyên tắc đi trước con người, bảo rằng người ta có thể đạt được điều thiện hoàn toàn không cần phải thật sự yêu thương người lân cận mình. Cách nhìn tùy thời chủ nghĩa đúng nhất và nhiều thiện cảm nhất, là xem đó như một phản ứng chống lại chủ nghĩa Pharisi đích thực hay tưởng tượng. Nhưng cả khi làm như vậy, thì cũng chẳng khác gì nhảy từ trên cái chảo chiên vào thẳng trong lò lửa, dầu muốn hành động đúng dầu là bằng thái độ lạnh lùng dầu sao cũng ít gây tai hại hơn là hành động bất chấp pháp luật, dầu là với ý tốt. Còn tình yêu thương cần luật pháp làm mắt cho mình, vì tình yêu thương (dầu là agape của Cơ Đốc giáo hay eros của tình dục) mù quáng. Bảo rằng hãy yêu thương một ai đó theo tinh thần Cơ Đốc giáo, điều đó bảo bạn phải làm việc đó như thế nào. Chỉ khi nào chúng ta tuân thủ các giới hạn luật pháp Đức Chúa Trời đã đặt ra, chúng ta mới thật sự làm điều tốt lành, ích lợi cho kẻ khác.
Cần bám chặt lấy hai chân lý này: Thứ nhất, luật pháp Đức Chúa Trời diễn tả đặc tính của Ngài; phản ảnh chính cách ăn ở cư xử của Ngài; nó cảnh giác chúng ta về những gì Ngài thích thấy và ghen ghét trong chúng ta. Nó là phương pháp hướng dẫn để chúng ta có thể trở nên thánh khiết, tận hiến để trở thành giống như Đức Chúa Trời, Đấng là hình tượng thật sự của loài người. Và như vậy (đây là chân lý thứ hai), luật pháp của Đức Chúa Trời thích hợp cho bản thân đã được chế tạo ra chỉ để chạy tốt nếu có xăng trong bình, cũng vậy, vì chúng ta được Đức Chúa Trời tạo dựng như đã có, chúng ta chỉ hoàn thiện đời sống mình bằng cách tuân giữ luật pháp. Chính vì việc đó mà chúng ta vừa được tạo dựng, vừa được cứu chuộc để hoàn thiện
PHÓNG TÚNG?
Tùy thời chủ nghĩa là sống theo thế gian, không những vì rõ ràng nó mở cửa cho người ta hướng về việc tự buông thả, mà còn vì nó nhằm thu hẹp đạo đức học Cơ Đốc giáo để nhồi gọn vào cái khuôn “phóng túng” của thế gian chủ nghĩa Tây phương, chối bỏ các hạn chế của mọi thế lực ngoại tại để tin chắc rằng chúng ta khôn ngoan và thánh thiện đủ để chỉ cần nhìn thoáng qua là biết ngay điều gì là tốt nhất. Nhưng theo các tiêu chuẩn của Kinh Thánh, đây là một trong số rất nhiều ảo tưởng, nảy sinh từ tánh kiêu ngạo của Satan để thách đố Đức Chúa Trời, mà tất cả chúng ta là loài thọ tạo sa ngã đều bị tiêm nhiễm.
Chúa Giê-Xu, Con Đức Chúa Trời nhập thể là con người trọn vẹn có thể thật sự nói rằng: “Ta yêu mến Cha” và “Ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (GiGa 14:31 8:29). Nếu có ai có đủ tư cách để phát giác những thiếu sót của Mười Điều răn để hướng dẫn chúng ta vượt khỏi chúng hầu đạt được điều tốt hơn, người đó chính là Ngài. Nhưng Ngài đã làm gì? Ngài khẳng định rằng chúng có thẩm quyền vĩnh viễn (Mat Mt 5:18-20) và là trung tâm của tôn giáo chân chính (19:17-19). Ngài đã giải thích cho chúng ta thấy chúng cấm đoán các thái độ cũng như các hành động sai quấy và ngăn chặn những trường hợp muốn trốn tránh (5:21-30, các điều răn thứ sáu và thứ bảy, 15:3-9, điều răng thứ năm; đối chiếu 23:16-22 5:33-36 theo nguyên tắc của điều răn thứ ba). Ngài càng nhấn mạnh lập trường của mình là giữ điều răn (LuLc 6:6-10, điều răn thứ tư). Khi Giăng nói: “Vì này là sự yêu mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ điều răn Ngài” (IGi1Ga 5:30, lời ông nói đã mô tả chính đạo của Chúa Giê-Xu, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta Chúa Giê-Xu từng định nghĩa yêu thương và làm môn đệ Ngài, là giữ các điều răn, mạng lịnh Ngài (GiGa 14:15, 21-24 đối chiếu Mat Mt 28:19,20). Giữ điều răn là phương pháp chân chính duy nhất để yêu mến Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Đó cũng là phương pháp chân thật duy nhất để yêu thương người lân cận mình nữa khi Phaolô nói: “Ai yêu người lân cận mình ấy là đã làm trọn luật pháp” (RoRm 13:8, 10), ông cũng giải thích luôn để chứng minh rằng yêu thương người lân cận bao gồm các cấm đoán đặc thù như tà dâm, sát nhơn, trộm cắp, và ghen tị. Ông không hề bảo rằng yêu thương người lân cận loại trừ được các điều răn ấy! Khi người lân cận tôi bắt chước lời của một bản nhạc “pop” và hát rằng: “Đến đây, chúng ta hãy ngủ với nhau”, hay cùng nhau phạm tội cách nào đó, thì tôi tỏ lòng yêu thương anh ta (hay cô ta) không phải là bằng cách đồng tình, nhưng là bằng cách, chống lại và chứng minh cho kẻ ấy thấy tại sao phải rút lại sự gợi ý ấy, như Giôsép đã làm (SaSt 39:8).
Đạo đức phóng túng mà người ta cho là tự do và hoàn thiện con người, thật ra là gây tổn thương và phá hoại: chẳng những cho xã hội (mà luật pháp của Đức Chúa Trời bảo vệ), mà cả cho cá nhân không tuân giữ luật pháp nữa, vì mỗi lần hành động như vậy, con người của kẻ ấy trở thành thô lỗ tục tằn và bị suy kém (giá trị) đi một ít. Kẻ biện hộ đầu tiên cho sự phóng túng là Satan, khi loài người sa ngã; những lời hứa của nó rằng con người bất tuân luật pháp sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời, chỉ là một lời nói dối. Sự phục vụ đầy tình yêu thương của Cơ Đốc nhân dành cho người lân cận mình trong thế giới hiện đại của chúng ta sẵn sàng nuốt chửng lời dối trá từ xưa đó, và phải đề cao thẩm quyền của luật pháp Đức Chúa Trời, xem đó như kim chỉ nam duy nhất, hướng dẫn con người đi vào sự sống đích thực
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Tình yêu thương và các điều răn: IGi1Ga 2:1-3:24 GaGl 5:2-6:10
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Những người theo chủ nghĩa tùy thời bào chữa như thế nào cho các hành động mà người khác nghĩ là sai lầm? Bạn có đồng ý với cách lý luận của họ không? Bạn có phản bác nổi nó không?
2. “Tình yêu thương và luật pháp không phải là đối thủ, nhưng là đồng minh của nhau” như thế nào?
3. Luật pháp Đức Chúa Trời cho thấy bản tính loài người thế nào? Điều này giúp ích gì cho chúng ta?

GIÊ-HÔ-VA ĐỨC CHÚA TRỜI CÁC NGƯƠI
Lúc Đức Chúa Trời ban Mười Điều Răn cho dân Ysơraên tại núi Sinai (XuXh 20:1-17) Ngài đã tự giới thiệu các điều răn ấy “Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán mọi lời này rằng: Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi...nhà nô lệ. Trước mắt ta, ngươi...” (câu 1 và tt). Đức Chúa Trời là ai và Ngài đã làm gì, quyết định việc dân Ngài phải như thế nào và làm những gì. Cho nên việc nghiên cứu Mười Điều Răn phải bắt đầu bằng việc tìm xem các điều răn ấy nói gì với chúng ta và Đức Chúa Trời.
Thứ nhất, Ngài là Đức Chúa Trời của công trình sáng tạo trời đất muôn vật của giáo ước. Điều răn thứ tư bảo rằng Ngài đã dựng nên trời, đất, biển “và muôn vật ở trong đó” (20:11). Vậy, bạn, tôi và mọi vật đang hiện hữu đều không tự nhiên mà có, nhưng là do ý chỉ và quyền phép Ngài. Trong việc này, công thức được nhắc đi nhắc lại năm lần “Giêhôva (Yahweh) Đức Chúa Trời các ngươi” (20:2, 5, 7, 10, 12) cho thấy đã có việc tham dự vào một giao ước.
Đức Giêhôva (Yahweh) do từ “có” là tên của Đức Chúa Trời Ngài muốn cho dân Ysơraên phải biết (xem 3:15). Cách Đức Chúa Trời giải nghĩa tên ấy có thể dịch là: “Ta (là Đấng) tự hữu “hoặc” Ta (là Đấng) hằng hữu” (3:13 và tt), nhưng trong cả hai trường hợp, ý nghĩa nổi bật vẫn là sự tư hữu hằng hữu và quyền thống trị. Tuy nhiên. mấy chữ thêm vào “Đức Chúa Trời ngươi” nói lên một mối liên hệ đặc biệt, mà “giao ước” là từ ngữ được Kinh Thánh dùng thường xuyên.
GIAO ƯỚC.
“Yahweh” là tên Đức Chúa Trời dùng khi Ngài lập giao ước, và Kinh Thánh ví sách giao ước của Ngài với giao ước hôn nhân của loài người một việc làm tự do, tự nguyện, đảm nhận sẽ yêu thương, bảo vệ và cấp dưỡng cho người mà mình gọi là “vô tội”, còn chính mình tự giới thiệu với người ấy là “chồng ngươi”. “Vì chồng ngươi tức là Đấng đã tạo thành (Tạo Hóa) ngươi” (EsIs 54:5). Không có lời tuyên bố nào về mối liên hệ yêu thương giữa Đức Chúa Trời với người được cứu chuộc, đơn giản “Đức Chúa Trời ngươi”, cùng với những câu cũng hết sức đơn giản khác nữa, như “Đức Chúa Trời của ngươi...lập giao ước cùng ngươi” (SaSt 17:7); “Ta ở với ngươi” (AgKg 1:13) Chúa Giê-Xu cũng đã nói như vậy trong Mat Mt 28:20); “Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta” (RoRm 8:31). Các giới từ và đại từ nhân xưng đã nói lên rất nhiều điều!
Sáng tạo kết hợp với việc lập giao ước, khiến Đức Chúa Trời được quyền đòi hỏi chúng ta phải vâng lời Ngài đến hai lần. Bạn có thể nói sự đòi hỏi ấy xuất phát từ cả tình phụ tử (cha theo nghĩa là người tạo nên) lẫn tình mẫu tử (do mối liên hệ giao ước). Giao ước của Đấng Tạo Hóa vào thời Cựu Ước đã được thiết lập với dòng dõi Ápraham qua Y sác và Giacốp, hiện nay những ai nhờ Đấng Christ đều được trở thành hậu duệ của Ápraham bởi đức tin. Vậy toàn thể chúng ta là người tin Chúa Giê-Xu Christ làm Cứu Chúa đều phải biết rằng, theo giao ước Chúa Giê-Xu đứng trung gian, Đức Chúa Trời đã đứng ra thề nguyện chúc phước cho chúng ta “trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng” (Eph Ep 1:3 đối chiếu RoRm 8:32); còn chúng ta thề nguyện sẽ trung tín vâng lời Ngài như Cha chúng ta qua Đấng Christ, và như Chồng chúng ta qua giao ước; đó là hai quy luật cho đời sống chúng ta.
TỰ DO
Thứ hai, Đức Chúa Trời là Đấng cứu chuộc và là Đấng ban thưởng. Cứu chuộc có nghĩa là phục hồi quyền sở hữu từ người xa lạ, thông thường bằng cách trả giá. Đức Chúa Trời là Đấng cứu chuộc dân Do thái khỏi ách nô lệ của Ai cập, cũng cứu chuộc các Cơ Đốc nhân khỏi ách nô lệ của tội lỗi và Sa tan bằng giá phải trả tại Gôgotha. Vậy, chính nhờ giữ luật pháp Ngài chúng ta được giải phóng và bảo tồn.
Điều này nghiệm đúng cho dân Ysơraên theo nghĩa bóng: Đức Chúa Trời từng bảo họ vâng lời nghĩa là được sống lâu dài trong “xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi ban cho” (c.12), như Ngài đã chứng minh “sẽ làm ơn đến ngàn đời” cho những ai yêu mến và vâng giữ các điều răn Ngài (c.6). Nhưng với dân Ysơraên thời bấy giờ và với các Cơ Đốc nhân ngày nay, chân lý đã còn sâu sắc hơn nữa, tức là: giữ luật pháp của Đức Chúa Trời sẽ đưa tới sự tự do sâu sắc hơn nữa (là sự thỏa lòng), là điều mà mười điều răn dạy chúng ta nhằm vào. Chính vì thế mà Giacơ đã gọi đó là “luật pháp về sự tự do” (Gia Gc 1:25). Đời sống chúng ta được tạo dựng rất thích hợp để giữ luật pháp, nhưng rồi tội lỗi khiến nó không còn thích hợp nữa, cuối cùng, ân điển khiến nó thích hợp trở lại để giữ luật pháp để rồi đời sống ấy được Đức Chúa Trời thích nhìn xem và ban thưởng; vì vậy tên của đời sống đó là tự do.
GHEN TUÔNG
Thứ ba, Đức Chúa Trời ghen tuông và phán xét, sự ghen tuông của Ngài không phải là thói xấu như thường hiểu về từ ngữ ấy. Nhưng là một phẩm hạnh đạo đức tuyệt vời; nó là sự ghen tuông của một người chồng chung thủy, mong muốn thật phải lẽ là vợ mình chỉ dành riêng một tình cảm duy cho mình mà thôi. Nơi nào tình yêu của Đức Chúa Trời bị cự tuyệt, ý chỉ Ngài bị xem thường. lòng chung thủy của Ngài bị phản bội, người ta sẽ thấy Ngài “thăm phạt” với tư cách một quan tòa (c.5). Đức Chúa Trời nói về những kẻ bị Ngài thăm phạt như vậy nối tiếp nhiều thế hệ, là những kẻ “thù ghét” Ngài, và động từ ấy cho thấy sự thật trong thâm tâm, tất cả những kẻ dám thách thức quyền cai trị của Đức Chúa Trời nhưng không thể quên được sự thực hữu của Ngài, đều mong muốn Ngài chết đi, hoặc đều tỏ ra dửng dưng, và đắng cay tỏ ra bất kính, thù ghét cả những đòi hỏi lẫn những lời cảnh cáo của Ngài. Vậy chúng ta có gì để ngạc nhiên hay phản đối khi Đức Chúa Trời đối xử với những kẻ như thế bằng sự phán xét báo ứng cuối cùng?
Chúng ta có nhìn nhận sự thật chính Đức Chúa Trời là Đấng ban bố luật pháo hay không? Đề cập Phúc âm trong RoRm 11:22, Phaolô nói: “Vậy hãy xem sự nhơn từ và nghiêm nhặt của Đức Chúa Trời: sự nghiêm nhặt đối với họ là kẻ đã ngã xuống, còn sự nhơn từ đối với ngươi, miễn là ngươi cầm giữ mình trong sự nhơn từ Ngài...”. Cả sự nhơn từ lẫn sự nghiêm nhặt cũng cùng xuất hiện trong Mười Điều Răn nữa, và người nào khôn ngoan quan tâm chú ý, sẽ làm chứng cho cả hai.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Giao ước và điều răn: Phục truyền 29,30.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao việc nghiên cứu Mười Điều Răn phải được bắt đầu bằng việc khảo xét Kinh Thánh đã nói gì về Đức Chúa Trời.
2. Hôn ước dạy chúng ta điều gì về việc Đức Chúa Trời dự phần vào giao ước với dân Ngài?
3. Giữ luật pháp của Đức Chúa Trời tạo ra tự do như thế nào?
AI ĐỨNG ĐẦU
Điều răn căn bản, đứng đầu về tầm quan trọng cũng như về thứ tự, cũng làm nền tảng cho tất cả các điều răn khác, là: “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác”, ngươi có đạo thật phải bắt đầu bằng việc thừa nhận điều này làm quy luật cho đời sống mình.
LÒNG TRUNG THÀNH
Vị thần của bạn phải được bạn yêu mến, tìm cầu, thờ phượng, phục vụ và được bạn dành cho quyền điều khiển, kiểm soát mình. Sở dĩ Phaolô gọi tham lam là “thần tượng” (CoCl 3:5), vì những gì mà bạn tham muốn - nhà cửa, của cải, đồ trang sức, tiền bạc, địa vị, sự thành công hoặc bất cứ điều gì khác - đều trở thành một vị thần đối với bạn theo nghĩa vừa kể trên. Yêu mến Đấng Tạo Hóa và Cứu Chúa mình, tôn thờ Ngài làm Đức Chúa Trời mình, xem Ngài là cao trọng hơn tất cả các đối tượng khác dâng trọn cuộc đời (đây là vấn đề của việc đặt “trước mặt"), có nghĩa là bạn phải sống vì Ngài như người tận trung vâng lời, đáng cho Ngài tin cậy vậy. Thái độ tận hiến tận trung với Đức Chúa Trời được bày tỏ bằng sự thờ phượng và phục vụ đúng theo Lời Ngài, là sự kính sợ Đức Giêhôva (kính sợ chớ không phải là kinh sợ!) Kinh Thánh xem đó là khởi điểm và dĩ nhiên cũng là yếu tính của sự khôn ngoan (Giop G 28:28 Thi Tv 110:10 ChCn 1:7 9:10). Tấm lòng tận trung là vùng đất để từ đó đời sống thánh khiết mọc lên và tăng trưởng.
CÁC THẦN KHÁC
Ngoài Đức Giêhôva, người ta còn có thể có các thần nào khác nữa? Nhiều lắm. Với dân Ysơraên, có các thần Ba anh của người Canaan, là các vị thần vui tính trong thiên nhiên - theo như chúng ta được biết nhờ khảo cổ học và những đoạn Kinh Thánh như trong OsHs 4:11-14 - sự thờ phượng đó gồm có việc tham ăn tục uống, say sưa, và nghi lễ mãi dâm. Với chúng ta, còn có các vị thần lớn hơn, như Tình dục, Tiền bạc, và Dạ dày (là ba ngôi bất khiết họp thành một thần, là bản ngã), với nhiều thần cặp ba bắt con người làm nô lệ, như Khoái lạc, Của cải và Địa vị, việc thờ phượng đã được mô tả trong IGi1Ga 2:16 như là “sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt. và sự kiêu ngạo của đời” (IGi1Ga 2:16) với một số người, túc cầu, hội đoàn, nghiệp đoàn và gia đình cũng là các vị thần, và là tất nhiên là danh sách các vị thần như thế vô cùng tận, vì bất cứ điều gì, bất luận người nào được ta phó thác điều khiển, kiểm soát cuộc đời mình, cũng đều là vị thần của mình cả, mà những điều những người đòi hỏi đặc quyền ấy đang vô số kể. Trong vấn đề căn bản là phải sống trung thực, thì sự cám dỗ là con quái vật có nhiều đầu.
SỐNG TẬP TRUNG
Điều răn lớn và đứng hàng đầu theo như Chúa Giê-Xu nói, là hết lòng, hết linh hồn và hết ý yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi (Mat Mt 22:37 câu này trong Mac Mc 12:30 còn thêm vào một chiều kích mới là “hết sức"). Được trích dẫn từ PhuDnl 6:4 và tt, để nhắc nhở rằng Đức Giêhôva chỉ có “một” nghĩa là “Chân Thần duy nhất” (vấn đề muốn nói ở đây là, thứ nhất, không hề có thần nào khác trong vùng phụ cận lại có thể được xem là giống như Ngài, và thứ hai, Ngài là Đấng duy nhất có quyền đòi hỏi tất cả mọi người phải thờ phượng và phục vụ mình); câu này vạch rõ cho chúng ta thấy việc trung thành với Đức Chúa Trời đòi hỏi điều gì. Nó đòi hỏi phải có tình yêu thương đáp lại lòng Đức Chúa Trời đã yêu thương khi tạo dựng và cứu rỗi bạn; nó đòi hỏi phải có sự tập trung trọn vẹn vào một chủ đích để mọi sự bạn làm đều chỉ tập trung vào mục tiêu duy nhất bạn nhằm vào - ấy là làm đẹp lòng và tôn vinh Đức Giêhôva.
Phaolô viết: “Khi một người đi ra trận, thì chẳng còn lấy việc đời lụy mình, làm vậy đặng đẹp lòng kẻ chiêu mộ mình” (IITi 2Tm 2:4). Trong công cuộc kinh doanh cũng vậy, các ông chủ đều trông mong cho bộ tham mưu của mình tận trung với mình và không làm việc cho ai khác nữa cả, và chúng ta nghĩ rằng họ có quyền trông mong như vậy. Nhưng sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời còn mạnh mẽ hơn biết bao! Chúng ta có quyết tâm, hết lòng đầu phục Đức Chúa Trời trong mọi việc Ngài đòi hỏi chúng ta vì chúng ta “mặc nợ” Ngài chăng. Ngài có thật ở trên hết mọi sự trong đời sống chúng ta không?
Trong đời sống, đặt Đức Chúa Trời đứng đầu có nghĩa gì? Thật ra là nhiều lắm. Trong 101 công việc tôi phải làm hằng ngày và 101 đòi hỏi tôi biết mình phải cố gắng đáp ứng, thì tất cả phải được thực hiện nhằm phục vụ Ngài bằng tình yêu thương, và tôi sẽ cố gắng hết sức mình để làm mọi sự vì Ngài, bằng thái độ mà George Herbert đã nói: “chịu khó nhọc vì Đức Chúa Trời; ai đang lau nhà, hãy làm như mình làm theo luật pháp Ngài, để biến việc ấy thành một hành động nhẹ nhàng, dễ chịu”
Và rồi tôi sẽ nhận thấy qua sự vận hành bí mật của Đức Thánh Linh chỉ biết được nhờ kết quả của nó, chính mục đích muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời sẽ ban cho tôi năng lực mới để thực hiện tất cả các nhiệm vụ những mối quan hệ đó, là phần năng lực nếu không phải vì thế tôi sẽ chẳng bao giờ có được. Một thi sĩ viết: “Em thân yêu, anh đã không thể yêu em nếu không vì quá yêu em mà anh càng được vinh dự nhiều hơn”. Hãy thay chữ “vinh dự” bằng chữ “Đức Chúa Trời”, bạn sẽ có được chân lý sâu nhiệm về tình yêu thương của Cơ Đốc nhân đối với người lân cận mình. Tự chuốc lấy oán thù gây ra tan rã; còn yêu đời, vui vẻ làm việc và yêu thương tha nhân, tất cả đều ngà càng trở thành quan trọng, vĩ đại khi Đức Chúa Trời được đặt lên hàng đầu.
Vậy, hãy tỉnh thức, hãy đặt Đức Chúa Trời lên ngôi - và hãy sống.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Các quyền ưu tiên sai lầm: Aghê 1
Đức Chúa Trời bị khinh dể, khiến nên mỏi mòn, bị trộm cắp: Malachi 1-4
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Vật gì hay bất cứ điều gì một người chọn làm thần mình có những đặc điểm nào? Bạn đang phục vụ thần (Đức Chúa Trời) nào?
2. Tại sao tác giả nói: “Lòng tận trung là vùng đất từ đó đời sống thánh khiết mọc lên và tăng trưởng”?
3. Trong thực tế, không có thần nào khác trước mặt Đức Chúa Trời có nghĩa gì?

ÓC TƯỞNG TƯỢNG
Hồi tôi còn trẻ, có một bài hát ai cũng biết bắt đầu bằng câu: “óc tưởng tượng rất lý thú; nó khiến một người u ám đầy ánh sáng mặt trời...”. Óc tưởng tượng quả kỳ diệu! Óc tưởng tượng sáng tạo (hãy nghĩ đến vở kịch Nhà vua của những chiếc nhẫn hoặc một vở kịch nào đó của Shakespeare hay một bản giao hưởng của Beethoven) Nó nâng cao các mối quan hệ, vì vạch rõ cho bạn thấy người đối diện nghĩ gì, cảm thấy thế nào. Là một phần của hình tượng Đức Chúa Trời trong chúng ta, nó tốt lành, và thiết yếu. Những người thiếu óc tưởng tượng thật đã bị mất mát rất nhiều. Nhưng cũng như tất cả những điều tốt lành khác, óc tưởng tượng càng có thể trở thành xấu. Nó có thể được sử dụng để trốn tránh thực tại đi vào ảo tưởng, như thế là sai lầm và tai hại. Tình yêu thương của trẻ con tạo ra sự tin tưởng, nhưng các mối quan hệ của người lớn cần thực tế. Nếu người này tưởng tượng về một người kia khác hẳn với sự thật về người ấy, sẽ có rắc rối xảy ra, như các nhà tâm bệnh học và các cố vấn về hôn nhân đều biết rất rõ. Và điều được nghiệm đúng trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, lại còn đúng hơn nữa trong mối quan hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời.
TƯỞNG TƯỢNG VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Chúng ta đã hình thành các tư tưởng về Đức Chúa Trời như thế nào? Chẳng những chúng ta không thể tưởng tượng về Ngài một cách đầy đủ, vì Ngài vĩ đại hơn điều chúng ta có thể nhận biết, chúng ta cũng không dám tin cậy bất cứ điều gì chúng ta tưởng tượng về Ngài, vì thói quen cứng nhắc của tâm trí khiếm khuyết của chúng ta cũng đánh giá thấp Đức Chúa Trời. Tội lỗi bắt đầu khi có việc trả lời lại sự cám dỗ “Hai ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời” (SaSt 3:5), và kết quả của việc chúng ta muốn trở nên ngang hàng với Đức Chúa Trời, là Ngài bị hạ thấp xuống cho ngang hàng với chúng ta. Điều đó không thực tế, nếu không nói là bất kính, nhưng đó chính là điều mọi người chúng ta đều làm khi óc tưởng tượng của chúng ta bắt đầu làm việc.
Do đó có điều răn thứ hai: “Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống với bất kỳ vật gì...” Điều răn này chẳng những cấm việc thờ nhiều thần (là phạm vi của điều răn thứ nhất) lại còn cấm tưởng tượng Đức Chúa Trời chân thật giống với loài người hay vật gì đó ở dưới đất thấp này. Điểm Đức Chúa Trời thật sự tấn công vào là các hình ảnh của tâm trí, trong đó các tượng ảnh bằng kim loại thật ra là hậu quả hơn là nguyên nhân. Khi dân Ysơraên thờ lạy Đức Chúa Trời dưới hình thức bò con vàng do họ đúc ra, là họ dùng óc tưởng tượng để quan niệm về Ngài như một Đấng có quyền phép nhưng lại không có sự trong sạch; đây là tội của họ. Và nếu óc tưởng tượng dẫn chúng ta vào việc suy nghĩ về Đức Chúa Trời, chúng ta cũng sẽ bị sai lạc. Không có lời phát biểu nào bắt đầu bằng “Đây là điều tôi thích nghĩ về Đức Chúa Trời” lại đáng tin cậy. Một Đức Chúa Trời của óc tưởng tượng bao giờ cũng là một ảo tưởng không có thật, hoặc ít hoặc nhiều.
ĐỨC CHÚA TRỜI CHÂN THẬT
Phải chăng là chuyện dễ giận, khi đã sửa sai cho một ai đó về các ý niệm sai lầm của người ấy, bạn lại thấy người ấy không chịu nghe, còn lải nhải nhắc đi nhắc lại mãi sự sai lầm cũ của mình? Hãy cân cứ vào đó, để ước lượng Đức Chúa Trời đã bị khiêu khích, chọc tức như thế nào, khi chúng ta không chịu chú ý đến những gì Ngài đã bày tỏ cho chúng ta về chính mình Ngài. Vì trong Kinh Thánh, Ngài đã nhất định bày tỏ cho chúng ta thấy cả bàn tay lẫn tấm lòng Ngài, cả lời nói lẫn việc làm của Ngài, và cả trên hết, là bằng đời sống trên đất này của Đức Chúa Giê-Xu Christ, là Con Ngài nhập thể, Đấng là hình tượng của chính Ngài đủ mọi mặt (CoCl 1:15 đối chiếu HeDt 1:3 GiGa 14:7-10) Đức Chúa Trời là Cha hoàn toàn giống với Chúa Giê-Xu! Đây là tin tức nghẹt thở nhất cho bất cứ ai được nghe! Nhưng chúng ta có quan tâm chú ý đến điều đã được bày tỏ ra đó không? Tôi e là không. Óc tưởng tượng đã lại dẫn chúng ta đi nơi khác.
Chúng ta đã làm gì? Chúng ta tưởng tượng ra một tiếng loảng xoảng ồn ào giữa các phần trình bày về Đức Chúa Trời trong nhiều phần khác nhau của Cựu Ước, và giữa toàn thể phần trình bày của Cựu Ước với điều chúng ta tưởng tượng về Chúa Giê-Xu. Bạn đã tưởng tượng Ngài, thuộc loại người như thế nào? Tử tế, nhu mì, dịu hiền chăng? Tử tế đến độ sẵn sàng tha thứ bất kể Ngài từng bị ngược đãi bao nhiêu lần chăng? Đúng như vậy - nhưng đó chỉ mới là một nửa sự thật, lại xem một nửa sự thật đó như là sự thật toàn vẹn, dĩ nhiên việc ấy sẽ trở thành chuyện hoàn toàn sai lầm. Hay là bạn đã quên mất thế nào Ngài đã dùng roi đánh đuổi những kẻ buôn bán khỏi đền thờ (Mac Mc 11:15-17 GiGa 2:14-16), đã lột mặt nạ của những kẻ thừa nhận là các cấp lãnh đạo tôn giáo (Math 23, v.v...), đã nguyền rủa cây vả như một dấu hiệu về sự phán xét sẽ giáng trên dân Ysơraên bất trung (Mac Mc 11:12-4,20 và tt)? Trong Chúa Giê-Xu, cũng như trong tất cả những lần Đức Chúa Trời tự bày tỏ mình qua suốt Kinh Thánh, đã có sự kết hợp giữa lòng thương hại với sự thánh khiết, tình cảm với quyền năng, sự chậm giận với sự đoán xét nghiêm khắc, đáng lẽ phải khiến chúng ta tự hạ mình xuống sát đất và cảm động đến tận tâm can để hằng ngày đề phải kêu cầu xin ơn thương xót. Nhưng chúng ta nhìn vào thực tế để thấy điều đó không? Hay óc tưởng tượng của chúng ta lại phản bội chúng ta một lần nữa?
Chúng ta có thích nghĩ rằng Đức Chúa Trời là ánh sáng đồng thời với tình yêu thương (IGi1Ga 1:5 4:8), vừa vĩ đại và đáng kinh khiếp, đồng thời cũng chung thủy trong tình yêu (NeNe 1:5)? Có thể là không nhưng Ngài là như thế, và thật khốn nạn cho chúng ta nếu chúng ta điên dại và không chịu quan tâm chú ý đủ để tưởng tượng Ngài khắc hẳn thế.
Đức Chúa Trời kết thúc điều răn thứ hai (XuXh 20:5 và tt) bằng cách nhắc nhở chúng ta bản tính thật sự của Ngài là Đức Chúa Trời hay ghen tuông đòi hỏi sự trung thành trọn vẹn, là Đức Chúa Trời công bình đoán phạt của kẻ thù Ngài xứng đáng với tội phạm của chúng, và là Đức Chúa Trời đầy ân điển, “làm ơn đến ngàn đời cho những ai yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn này? Bằng cách cột dây cương cho óc tưởng tượng lộn xộn, mất trật tự của chúng ta, và cung kính tin nhận Đức Chúa Trời. Nhưng thường chúng ta không sẵn sàng và chậm chạp để làm việc ấy! Thế nhưng chúng ta phải học tập để làm điều đó; vì chỉ có làm như vậy óc tưởng tượng bay bướm chỉ thấy toàn màu hồng mới chịu từ bỏ chúng ta, để hiện thực chủ nghĩa sẽ thay vào đó, khiến sự thờ phượng thật - là sự thờ phượng theo đúng chân lý - có thể bắt đầu.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Bò con vàng và những gì Đức Chúa Trời nghĩ về nó: Xuất Êdíptô ký 32
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
Tại sao óc tưởng tượng của loài người không đủ sức để mô tả Đức Chúa Trời?
Thật ra, tôi nào thúc giục người ta chế tạo các hình tượng của Đức Chúa Trời? Tội ấy có phải là một vấn đề trong đời sống chúng ta không? Nếu có, bạn phải giải quyết nó như thế nào?
Dùng lời lẽ của riêng bạn cho biết Đức Chúa Trời là thế nào?
BẠN CÓ NGHIÊM CHỈNH KHÔNG?
Một nhà ngoại giao tôi không nhớ tên đã cay cú nói: “Mục đích của lời nói nhằm che giấu tư tưởng”. Để giải thích thật sự chúng ta nói ra những gì, câu này rất đúng. Thông thường chúng ta nói để gây tác dụng, nói với nhau những điều mình không có ý muốn nói, cũng không thể biện hộ cho, khiến người ta tin rằng mình chẳng có hậu ý gì cả. Có một câu hỏi cần thường xuyên đặt ra, là “Bạn có nghiêm chỉnh không đấy?”, vì thường thường, khi đáng lẽ chúng ta cần nói nghiêm chỉnh, chúng ta lại không nghiêm chỉnh.
Không chịu để cho lời nói bó buộc mình - nghĩa là không chịu nhận rằng mình phải chịu trách nhiệm về những gì mình đã thật sự nói ra - là một triệu chứng của tội lỗi, là con sâu đạo đức, tiêu diệt sự thanh liêm của chúng ta. Tại sao những lời thề nguyện khi làm phép giao, các khế ước được ký kết giữa chủ và thợ, và những lời hứa thông thường - làm việc này, đi xem cái kia, đến đây, đi đàng đó - lại thường bị người ta vi phạm quá dễ dàng như vậy> Tại sao đời sống chúng ta lại đầy dẫy những lời hứa, vì quỷ quyệt, thu xếp vụng về, tự cao tự thị, hoặc chỉ vì vô tâm vô tình suông mà thôi, chúng ta đã không giữ đúng được? Tại sao chúng ta hay xem thường những người vẫn tin tưởng vào những gì ta nói như vậy? Chính vì tội không sẵn sàng xem những gì chúng ta nói ra là nghiêm chỉnh.
LẤY DANH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀM CHƠI
Tuy nhiên, Kinh Thánh rất coi trọng các lời hứa. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải trung tín trọn vẹn trong việc giữ lời hứa. Tại sao vậy? Một phần, tại vì đáng tin cậy là một thành phần của hình tượng Ngài và Ngài muốn thấy điều đó nơi chúng ta; phần khác vì nếu thiếu nó xã hội sẽ bị đổ vỡ tan tành. Điều ran thứ ba nói lên mối quan tâm của Đức Chúa Trời đến điểm này.
Điều răn ấy là: “Ngươi chớ lấy danh Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi”. “Làm chơi” có nghĩa là “cho là không có thật”. Những gì đã bị cấm đoán đều sẽ vô dụng chẳng được ai làm theo, nếu danh Đức Chúa Trời chỉ là rỗng tuếch, là chuyện “tào lao”, hay không thành thật. Điều này đụng chạm đến ít nhất là ba điều.
Điều đầu tiên là sự bất kính - lời nói hay suy nghĩ về Đức Chúa Trời làm sỉ nhục Ngài vì xem thường sự khôn ngoan và thiện hảo của Ngài. Gióp đã vì các con mình dâng của lễ trong khi chúng hãy còn sống, vì sợ “trong lòng chúng từ chối (nguyền rủa) Đức Chúa Trời chăng” (Giop G 1:5). Rồi sau khi các con ông đã chết đi” (2:9), nhưng ông đã không làm như vậy. Bất cứ lúc nào tội lỗi len lỏi vào, khiến chúng ta thù ghét Đức Chúa Trời vì những điều Ngài đã cho phép xảy đến với chúng ta hoặc với người khác, là chúng ta đã vi phạm điều răn thứ ba.
Điều thứ hai là việc nói tục, lấy danh thánh của Đức Chúa Trời ra thề, nói lên những cảm nghĩ bất khiết của loài người. Chẳng hạn, hằng ngày thiên hạ vẫn gọi “Chúa ơi”, “Trời ơi” và những cách nói tương tự như vậy, có thể đây không phải là những tội lỗi tồi tệ nhất, nhưng vẫn là vi phạm trắng trợn điều răn thứ ba, bởi vì nó chẳng bày tỏ đức tin cũng như lòng tôn thờ. Thỉnh thoảng, sự giận dữ thắng hơn chúng ta, và khi gặp trường hợp như vậy thường chúng ta thà nói tục còn hơn là bạo động, hành hung. Nhưng nếu bạn luôn luôn ghi khắc trong tâm trí chân lý Đức Chúa Trời là Chúa tể, và Ngài là Đấng đặt mọi sự, kể cả những chán nản thất vọng nữa, nhằm thánh hóa chúng ta (HeDt 12:5-11 đối chiếu RoRm 8:28 và tt) bạn sẽ có thể ngày càng “giữ bình tĩnh” cả những lúc dễ “điên tiết” hơn hết - và như thế sẽ hay hơn.
Điều thứ ba và điều cần nhấn mạnh đặc biệt, như chúng ta đã thấy, tất cả chúng ta đều có thể chần chừ ở điểm này, ấy là việc giữ lời hứa. Nếu chúng ta đã lấy danh Đức Chúa Trời để khiến người ta thêm tin tưởng những lời mình nói, và nếu sau đó, chúng ta phản bội lời nói của mình, đó quả là một sự bất kính nghiêm trọng. “Các ngươi chớ chỉ danh ta mà thề dối, vì ngươi làm ô danh của Đức Chúa Trời mình” (LeLv 19:12 đối chiếu Gie Gr 5:2 XaDr 5:4). Đức Giêhôva chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài làm chơi.
Và vấn đề còn đi sâu hơn. Khi Chúa Giê-Xu công kích quan niệm của người Pharisi cho rằng người ta có thể vi phạm một lời thề lấy danh một vật thánh mà chẳng có tội lỗi gì cả - miễn là danh Đức Chúa Trời vẫn chưa được công nhiên đề cập - điểm Ngài muốn vạch rõ là các ngươi chớ nên đưa Đức Chúa Trời vào những công chuyện thương lượng trao đổi của các ngươi; Ngài là Đấng vô sở bất tại, và tất cả các lời hứa đều được thực hiện trước hiện diện của Ngài và đều liên hệ đến Ngài, cho dù danh Ngài có được nêu ra hay không (Mat Mt 5:33 và tt). Vậy, mọi lợi hứa đều thiêng liêng, và phải được tuân thủ. Trẻ con biết rõ và cảm nhận rõ ràng điều đó; nhưng thảm hại thay người lớn lại thường quên đi.
Do đó, người tin kính phản thận trọng khi hứa hẹn, và một khi đã hứa hẹn rồi, cũng phải thận trọng giữ lời, vì biết rằng vô trách nhiệm và tỏ ra không đáng tin cậy trong việc này là một trọng tội. Chắc chúng ta nhận thấy rất khó học thuộc bài học này! Chúng ta còn cần thiết phải học thuộc nó nhiều hơn nữa!
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Tại sao cần phải “canh giữ” môi miệng (lời nói): Mat Mt 12:22-37.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải giữ đúng những lời hứa?
2. Phải chăng việc lấy danh Đức Giêhôva làm chơi chỉ quan hệ với những lời hứa nhân danh Ngài, hay không? Tại sao có và tại sao không?
3. Bạn sẽ bài bác người Pharisi như thế nào trong việc họ cho rằng những lời thề không đặc biệt chỉ danh Đức Chúa Trời, có thể bị vi phạm nhưng chẳng có tội lỗi gì cả?
HÃY TẬN DỤNG THÌ GIỜ CỦA TA
Điều răn thứ tư: “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh” nêu lên nhiều vấn đề. Thứ nhất, vấn đề về lịch sử: trước biến cố xảy ra tại Sinai, đã có việc giữ ngày Sa bát không? Từ ngữ “nhớ” giới thiệu điều răn, thêm vào cho phần ký thuật về việc trước đó, Đức Chúa Trời đã không cung cấp bánh ma-na vào ngày thứ bảy, vì Ngài đã dành ngày ấy đặng làm ngày Sa bát để nghỉ ngơi (XuXh 16:2-30), gợi ý rằng nó đã có rồi, trong khi SaSt 2:2 và tt. (Đức Chúa Trời chúc phước cho ngày Sa bát và biệt riêng nó ra thánh, vì trong ngày ấy Đức Chúa Trời nghỉ ngơi) cho thấy ngày Sa bát đã có ngay từ buổi sáng thế.

NGÀY SA BÁT VÀ NGÀY CỦA CHÚA
Thứ hai, là vấn đề về thể chế (diopensational): có mối liên hệ nào giữa ngày Sa bát của Cựu Ước, là ngày thứ bảy trong tuần lễ, kỷ niệm công cuộc sáng tạo trời đất muốn vật và việc cứu chuộc khỏi Ai cập (PhuDnl 5:15), với “ngày của Chúa” khi các Cơ Đốc nhân nhóm lại để thờ phượng, là ngày thứ nhất trong tuần lễ, kỷ niệm sự phục sinh của Chúa Giê-Xu (xem GiGa 20:19, Cong Cv 20:7 KhKh 1:10)? Theo Thomas Aquinas và Bài xưng nhận Đức tin Westminster, mối liên hệ chính là một cách mới để tính sáu-và-một, khiến việc giữ ngày của Chúa của các Cơ Đốc nhân trở thành một hình thức của việc giữ ngày Sa bát. “Từ ngày sáng thế cho đến ngày Đấng Christ phục sinh, Đức Chúa Trời đã chỉ định ngày thứ bảy trong tuần lễ làm ngày Sa bát hằng tuần; và từ đó trở đi, ngày thứ nhất trong tuần lễ... (trở thành)...ngày Sa bát của Cơ Đốc giáo” (sách tóm tắt giáo lý Westminster)
Dường như đây là cách hiểu tự nhiên chứng cứ hiếm hoi này (nghĩa là ba văn bản Tân Ước vừa nói trên đây); nhưng những người Cơ Đốc phục lâm vẫn tiếp tục việc giữ ngày thứ bảy làm ngày Sa bát, phủ nhận việc đã có thay đổi, trong khi nhiều người khác, cùng với Augustine, xem lịnh truyền “nghỉ ngơi” có nghĩa bóng về sự yên nghỉ bởi đức tin trong Đấng Christ, và kết luận rằng, cũng như các hình bóng khác trong Cựu Ước, điều răn này hiện đã bị hủy bỏ rồi. Vậy, lý do khiến họ giữ ngày của Chúa là do truyền thống hành đạo trong Hội Thánh, chớ không phải do lịnh truyền trực tiếp của Đức Chúa Trời.
Thứ ba, vấn đề về đạo đức: nếu ngày của Chúa là ngày Sa bát của Cơ Đốc giáo, chúng ta phải biệt riêng nó ra thánh như thế nào? Trả lời: như thái độ cư xử đã có của Chúa Giê-Xu. Những ngày Sa bát của Ngài không phải là để vui chơi vô ích nhưng là để thờ phượng Đức Chúa Trời và làm việc lành - Sách giáo lý tóm tắt gọi là “việc cần thiết, và bày tỏ lòng nhơn từ thương xót” (xem LuLc 4:16 13:10-17 14:1-6). Được giải phóng khỏi những công việc chẳng ra gì của thế gian để được tự do phục vụ Chúa vào thời đại mình, Mathew Henry bảo rằng ngày Sa bát được làm nên ngày nghỉ thánh để có thể trở thành một ngày làm việc thánh. Trong thế gian nhàn rỗi và cô đơn này của chúng ta, làm việc thánh không hề loại trừ sự tiêu khiển thuộc thể và sự họp mặt vui vẻ trong gia đình, nhưng việc thờ phượng và thông công theo Cơ Đốc giáo phải được đặt lên hàng đầu.
THÌ GIỜ CỦA CHÚNG TA LÀ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Những suy diễn từ ba vấn đề trên đây có thể vẫn còn tranh cãi, những phần nguyên tắc ẩn bên dưới rất rõ ràng, tức là chúng ta phải tôn vinh Đức Chúa Trời, chẳng những bằng lòng tận trung (điều răn thứ nhất), và bằng một đời-sống-biết-suy-xét (điều răn thứ hai), nhưng là còn bằng cách sử dụng thì giờ của mình nữa, theo một nhịp điệu có lao khổ có nghỉ ngơi; sáu ngày làm việc được một ngày nghỉ để thờ phượng. Đức Chúa Trời đòi hỏi những ngày Sa bát của chúng ta nhắc nhở chúng ta rằng tất cả thì giờ của chúng ta là quà tặng Ngài ban, nên cần phải hoàn trả lại Ngài và sử dụng chúng cho Ngài. “Dâng trọn đời sống” bao hàm “dâng trọn từng khoảnh khắc, từng ngày một, dâng trọn tất cả thì giờ”. Đây là khởi điểm của việc thật sự vâng giữ điều răn thứ tư.
Ngày nay, quan niệm rằng Cơ Đốc nhân là người quản lý các ân tứ và tiền bạc mà Đức Chúa Trời giao cho họ, là một chân lý phổ biến; việc chúng ta là người quản lý thì giờ đã được ban cho mình ít được nhấn mạnh hơn, nhưng cũng đúng y như vậy. Chúng ta có thể học tập điều đó nơi những người Thanh giáo, thường nói lên ý thức của họ về sự quý báu của thì giờ, và nơi Phaolô, là người từng khuyến giục: “Hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em...hãy lợi dụng thì giờ, vì những ngày là xấu” (Eph Ep 5:15 đối chiếu CoCl 4:5) “thì giờ” có nghĩ là “khoảnh khắc” hay “mua lấy” “chuộc lại những gì đã phí phạm và đã sử dụng một cách vô ích”, và các ngày vẫn “xấu” theo nghĩ Phaolô muốn nói, là những ngày đầy cám dỗ và chống đối do các lực lượng bắt nguồn từ Sa tan (đối chiếu 6:11-17). Sa tan muốn thấy chúng ta sử dụng sai thì giờ của mình, còn chúng ta thì có nhiệm vụ phải biến từng phút một trở thành có ích lợi, có giá trị cho Đức Chúa Trời.
Phải làm như thế nào? Không phải là bằng cách chạy đôn chạy đáo, cố làm cho được nhiều việc chỉ trong một ít thì giờ (như sai lầm phổ biến hiện nay), nhưng là biết tổ chức một lối sống có trật tự, theo nhịp điệu có lao khổ có nghỉ ngơi, có làm việc có thờ phượng, biết dành đủ thì giờ để ngủ nghỉ, để sống với gia đình, để làm công ăn lương, để làm công việc nhà, để cầu nguyện, để giải trí tiêu khiển, v.v..., làm cách nào để chúng ta làm chủ được thì giờ, chớ không phải để nó làm chủ mình.
Có lẽ rất ít người trong chúng ta biết chú trọng vâng giữ điều răn thứ tư như chúng ta đáng phải làm. Những thất bại của riêng tôi ở điểm này rất trầm trọng. Tôi tự hỏi, còn phần bạn thì sao?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Làm cách nào để dâng thì giờ cho Đức Chúa Trời: Êsai 58
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bạn thấy có mối liên hệ nào giữa ngày Sa bát của Cựu Ước, với ngày của Chúa trong Tân Ước? Hãy bảo vệ quan điểm của bạn chống lại các quan điểm khác.
2. Trong thời đại của chúng ta ngày nay, chúng ta có thể biệt riêng ngày Sa bát ra thánh như thế nào?
3. Về phương diện thực tế, dâng trọn thì giờ của chúng ta cho Đức Chúa Trời bao gồm những gì?
ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ GIA ĐÌNH
Sau bốn điều răn về những đòi hỏi trực tiếp của Đức Chúa Trời là sáu điều răn mà sách hướng dẫn trong giờ thờ phượng gọi là “bổn phận của tôi đối với người lân cận mình”. Điều răn thứ nhất trong số đó, là “hãy hiếu kính cha mẹ ngươi”

KÍNH TRỌNG CHA MẸ
Kinh Thánh nhấn mạnh cha mẹ có trách nhiệm dạy dỗ con cái, còn con cái phải hiếu kính cha mẹ. Trong Cựu Ước, không kính trọng cha mẹ là một tội nặng: kẻ nguyền rủa cha mẹ mình có thể bị xử tử (XuXh 21:17, LeLv 20:9), còn Cham bị trừng phạt vì nhạo cười cha mình là Nô-ê, lúc ông nằm ngủ lõa thể do hậu quả của một lần say rượu (SaSt 9:20-27). Trong Tân Ước, Chúa Giê-Xu lột mặt nạ bọn Pharisi vì họ khoe khoang mình giữ điều răn thứ năm, trong khi thật ra họ đã vi phạm điều răn ấy vì bỏ mặc cha mẹ mình lâm cảnh cùng túng (Mat Mt 15:3-9); Tân Ước cũng dạy rằng không vâng lời cha mẹ là biểu hiện của sự sa sút và bội đạo (RoRm 1:30).
Tại sao Đức Chúa Trời lại đề cao bổn phận “yêu thương, hiếu kính và tiếp trợ cho cha mẹ” (như sách hướng dẫn thờ phượng chép như vậy)? Vì nhiều lý do.
Thứ nhất, gia đình là đơn vị căn bản của xã hội; không có quốc gia nào ổn định hay hùng cường được nếu sinh hoạt gia đình yếu kém.
Thứ hai, gia đình là đơn vị căn bản về phương diện thuộc linh, trong đó, Đức Chúa Trời đặt những người làm cha mẹ, làm mục sư và giáo sư cho con cái mình.
Thứ ba, thật ra con cái nợ nơi cha mẹ một món nợ lớn lao về những năm chăm sóc và nuôi dưỡng.
Thứ tư, con cái cần sự dìu dắt của cha mẹ nhiều hơn là điều chúng có thể biết được, nếu chối bỏ điều đó chúng tự biến mình trở thành nghèo nàn. Sự trường thọ được hứa trong XuXh 20:12 và PhuDnl 5:16 cho những người hiếu kính cha mẹ, không được bảo đảm cho Cơ Đốc nhân, nhưng vẫn nghiệm đúng đối với những con cái vong ân bội nghĩa đối với cha mẹ, vì chúng sẽ bị mất mát, thiệt thòi lớn lao. Chúng đã không đạt tới trình độ trưởng thành của con người, khiến chúng rất khó hiếu kính với Cha trên trời.
Thứ năm, vào thời trước khi có tổ chức an ninh xã hội, người có tuổi tác chỉ có con cái cấp dưỡng cho mình; và cả đến tình trạng an vui của những người làm cha mẹ đã có tuổi cũng cần đến sự quan tâm yêu thương của con cái mình, y như trước đó, con cái đã có lần cần đến sự yêu thương chăm sóc của cha mẹ vậy.
ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ CÁC GIA ĐÌNH
Lẽ dĩ nhiên, không có điều nào trong số đã kể trên lại biện minh được cho việc bậc làm cha mẹ hành hạ, cầm quyền hay đòi hỏi con cái phải khuất phục mình “Kẻ làm cha chớ chọc giận con cái mình, đẩy con cái mình đến chỗ oán ghét, nhưng hãy dạy dỗ, sửa trị chúng, là cách dưỡng dục con cái theo Cơ Đốc giáo” (CoCl 3:21 Eph Ep 6:4 theo bản NEB). Nếu cha mẹ ngăn trở con cái trên con đường làm môn đệ Chúa, không vâng lời cha mẹ là việc xấu cần thiết làm thôi.
Nhưng điều chúng ta cần phải nhận thức ấy là chính Đức Chúa Trời cũng là một người Cha - Cha của Đức Chúa Giê-Xu Christ chúng ta và của toàn thể các Cơ Đốc nhân qua Ngài - vẫn rất quan tâm chăm sóc cho từng gia đình. Sinh hoạt gia đình với những trách nhiệm xây dựng của cả cha mẹ lẫn con cái, đều là một phần của mục đích Ngài đối với tất cả mọi người, và cách làm con cái và làm cha mẹ của chúng ta là sự thử nghiệm đều tiên đối với nhân cách và sự tin kính của chúng. Tình yêu thương - sự thương yêu chăm sóc của người làm cha mẹ tôn trọng con cái họ và muốn thấy chúng trưởng thành, và tình thương yêu tỏ ra biết ơn và hiếu kính cha mẹ, muốn thấy cha mẹ hài lòng - là nhu cầu tối quan trọng cho chúng ta ở đây.
Ngày nay, cả bậc cha mẹ lẫn kẻ làm con cái cần cùng nhau học hỏi lại cách sống trong gia đình Cơ Đốc nhân, là điều vô cùng cấp bách. Bên Tây phương, đại gia đình của quá khứ đã bị thu nhỏ lại thành tiểu gia đình chỉ lác đác có mấy con người của ngày hôm nay; các tổ chức an ninh xã hội và công cộng phát triển mạnh, đã thu hẹp tầm quan trọng của gia đình để chỉ còn là một đơn vị kinh tế; và tất cả những điều đó đã làm suy yếu các mối liên hệ gia đình. Bậc làm cha mẹ quá bận rộn không có thì giờ dành cho con cái, còn đám thanh niên tự khoe là theo luồng văn hóa “trẻ” nên sẵn sàng hơn bao giờ hết cho rằng cha mẹ họ toàn là những ông già bà già lẩm cẩm. Nhưng điều răn thứ năm nhắc nhở chúng ta phải quay trở về với trật tự của Đức Chúa Trời ở điểm này.
Bây giờ, thành thật mà nói: Bạn đang và-đã- có thái độ như thế nào đối với cha mẹ mình? Hiếu kính có nghĩa là tôn trọng cha mẹ vì địa vị, vì mối liên hệ của họ đối với bạn, như chúng ta phải hiếu kính hàng giáo phẩm và các viên chức chính quyền vậy, bất chấp chúng ta có suy nghĩ gì về các hạn chế cá nhân hay đời tư của họ. Một bạn đồng học của tôi đã xuất sắc chiếm được một sự nghiệp vẻ vang trong giới bác học, nhưng ông ta cứ ngày càng lấy làm xấu hổ thêm về cha mẹ mình (cha ông ta vốn là thợ làm bánh mì), nên không chịu đến thăm viếng họ hoặc để cho họ đến thăm mình. Cũng như vào thời kỳ chưa có nhà dưỡng lão, người Pharisi đã trốn tránh trách nhiệm về tài chánh đối với cha mẹ họ (điều đã khiến Chúa Giê-Xu quở trách họ không tiếc lời trong Mac Mc 7:6-13), thiên hạ ngày nay cũng trốn tránh trách nhiệm chăm sóc cha mẹ họ, khi các vị ấy không còn tự lo lấy cho chính mình được nữa. Nhưng chẳng ai có thể khoe khoang được là mình yêu thương người lân cận, trong khi chẳng đoái hoài gì đến chính cha mẹ mình. Một số người trong chúng ta cần ăn năn trong việc này.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Mẫu mực cho các gia đình: CoCl 3:18-21 (đối chiếu Eph Ep 5:21-6:4)
Chúa Giê-Xu hiếu kính với mẹ Ngài như thế nào: GiGa 2:1-11 19:25-27
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao một quốc gia không thể hùng cường được nếu sinh hoạt gia đình bị suy yếu?
2. Thông hiểu tình phụ tử của Đức Chúa Trời giúp đỡ được cho người làm cha mẹ như thế nào?
3. Về phương diện nào, gia đình là mảnh đất thử nghiệm?
SINH MẠNG LÀ THIÊNG LIÊNG
Điều răn thứ sáu (XuXh 20:13 PhuDnl 3:17) là “Ngươi chớ giết người”. Từ ngữ này có nghĩa là giết người một cách quỷ quyệt, bất hợp pháp. Vấn đề hành quyết theo lịnh của tòa án và giết người trong chiến tranh không được đề cập ở đây. Sự thật Đức Chúa Trời vẫn dùng đến cả hai biện pháp ấy ngay trong những quyển sách chép về các điều răn (xem XuXh 21:12-17 PhuDnl 20:10-18). Cho dù chúng ta có thể nghĩ rằng án tử hình là điều không nên có và đáng ghê tởm (người ta có nhiều quan điểm rất khác nhau), chúng ta không nên ngại điều răn này để chứng minh cho quan điểm của mình. Trong liên văn, nó không hề đụng chạm gì đến vấn đề ấy, mà chỉ bàn về đạo đức tính cá nhân mà thôi.
CON NGƯỜI THEO HÌNH TƯỢNG ĐỨC CHÚA TRỜI
Điều răn này được đặt trên nguyên tắc cơ sở sinh mạng con người là thánh, trước hết, vì đó là ân tứ Đức Chúa Trời ban, và thứ đến vì con người là hình tượng của Đức Chúa Trời (SaSt 1:27 9:6). Như thế, sinh mạng con người là quý báu và thiêng liêng nhất trên đời, mà kết thúc nó hay ra lịnh kết thúc nó, là đặc quyền của chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Chúng ta tôn vinh Đức Chúa Trời bằng cách kính trọng hình tượng Ngài nơi người khác, nghĩa là phải luôn luôn bảo tồn sinh mạng và làm thăng tiến sự an vui của tha nhân bằng mọi cách mình có thể làm được.
Có nhiều điều không phải bao giờ cũng bị gọi là giết người, mà điều răn này lên án. Một là sự quỷ quyệt, ước muốn khiến cho người khác bị thu nhỏ lại, bị làm mất uy tín, như ta vẫn nói: “Tao cho mày chết!”. Chúa Giê-Xu từng nhấn mạnh điểm này: “Hễ ai giận anh em mình, thì đáng bị tòa án xử đoán...ai mắng anh em mình thì sẽ phải trả lời trong lửa hỏa ngục” (Mat Mt 5:22, theo bản NEB). Giận trong lòng cũng tương đương việc hành hung, giết người ấy.
Thứ hai, điều răn này lên án tất cả những hành vi tàn ác, hay bạo động, hành hung, có thể làm suy yếu hay thu ngắn đời sống của một người khác. Thật là nghiêm trọng khi thấy các tội ác chống lại con người (chẳng hạn như thả hơi ngạt, thả bom) cứ ngày càng tăng thêm tại các nước tư cho là theo Cơ Đốc giáo, trong khi việc tẩy não và thẩm vấn bằng tra tấn (và lắm khi chỉ tra tấn mà chẳng cần thẩm vấn chi cả) đã chiếm được địa vị là các nguồn tài nguyên làm tiêu chuẩn cho chủ nghĩa quân phiệt hiện đại. Nếu người chịu suy gẫm điều răn thứ sáu, đã không có điều nào trong số vừa kể trên có thể tồn tại được.
GIẾT TỪ TRONG TRỨNG
Thứ ba, điều răn này lên án việc phá thai, bởi vì như sản khoa chứng minh, cái trứng nằm trong tử cung lúc thụ thai đang ở trong tiến trình để sẽ ra chào đời. Sự kiện qua nhiều tháng nó không thể tồn tại ngoài lòng mẹ chẳng ảnh hưởng gì đến quyền lợi của nó cần được bảo vệ như những con người khác cũng xứng đáng được bảo vệ như vậy, và tự nó cũng xứng đáng được bảo vệ một khi đã được sanh ra đời. Sự phá thai chỉ có thể được biện minh (và chỉ được xem là điều xấu tối cần thiết) khi sanh mạng thai phụ thật sự lâm nguy - và như các bác sĩ đều biết rõ, những trường hợp như thế rất hiếm có ngày nay. Trên một cơ sở khác, phá thai hợp pháp là một tội ác xã hội, cho dù các luận cứ đưa ra có thích hợp đến đâu đi chăng nữa.
Thứ tư, điều răn này lên án việc tự tử và gây mê khi hấp hối (enthanasia). Tự sát là hành động của một tâm trí bấn loạn; tuy những hành động như thế tự chúng không làm thất bại ân điển của Đức Chúa Trời như trước đây người ta vẫn tưởng, tự tử là trực tiếp vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời. Gây mê khi hấp hối cũng vậy, dầu là việc tự tử viễn khiển hay giết người căn cứ trên ý nghĩ mình “giúp người ta thoát được khổ sở” là hợp pháp như chúng ta bấu những con ngựa hay yêu cầu các thú y sĩ đầu độc những con vật mà mình thương yêu. Chúng ta không thể so sánh một con người với con ngựa hay con chó con mèo, cả khi người ấy, khi lâm vào cơn đau đớn điên loạn, đã yêu cầu chúng ta làm như vậy. Luật pháp cần xem cả việc tự tử lẫn gây mê cho người hấp hối, là những hành động bất hợp pháp.
(Cứ để cho thân thể chết dần khi không còn hi vọng phục hồi ý thức dĩ nhiên không phải là gây mê cho người hấp hối; trong trường hợp này, người ấy phải được xem như đã chết cơ quan quan trọng nhất rồi. Chỗ khó trong các trường hợp này là việc phán đoán khi nào thì ý thức người ấy không còn có thể phục hồi được nữa).
Việc tàn sát triệu triệu người Do thái và khuyết tật của bọn Đức quốc xã và triệu triện người Nga của đảng cộng sản Nga trong thế kỷ này cho thấy việc phủ nhận tính cách thánh thiêng của sinh mạng con người có thể dẫn tới đâu. Điều răn thứ sáu đã vạch rõ một phương pháp đúng hơn và tốt hơn nhiều.
KẺ SÁT NHƠN
Như các nhà viết truyện về những kẻ sát nhơn đoán định cũng như phần đông chúng ta có thể học hỏi được bằng kinh nghiệm, chúng ta có trong người các khả năng giận dữ, sợ hãi, ghen tị, tham lam, lừa gạt, thô lỗ và thù ghét, và khi bị chọc giận đúng lúc tất cả chúng ta đều có thể trở thành những kẻ giết người - sát hại trẻ con, những con “yêu râu xanh”, sát nhơn chuyên nghiệp hoặc tài tử. G.K.Chesterton trong quyển Father Brown giải thích phương pháp điều tra các án mạng của mình bằng câu nói: “Bạn thấy đó, chính tôi đã giết tất cả những người đó” - theo nghĩa ông ta đã tự nhìn vào nội tâm để tìm kiếm tâm lý nào tạo ra án mạng mà mình đang điều tra, và đã thật sự tìm thấy nó ở đó. Chesterton đã đưa ra bài học luân lý sau đây:
“Chẳng có ai thật sự là người tốt trước khi biết rõ mình vốn xấu xa - hay có thể xấu xa - đến mức độ nào; trước khi nhận thức được chính xác mình phải, mình đúng tới mức độ nào, người ấy hoàn toàn tự cao tự đại, hay nhạo báng và nói về các phạm nhân dường như là những con khỉ sống trong rừng rậm cách đây hàng vạn dặm...cho đến khi người ấy loại ra được khỏi tâm hồn mình giọt dầu cuối cùng của bọn Pharisi; cho đến khi hi vọng duy nhất của người ấy chỉ còn là, bằng cách này hoặc cách khác, phải tóm cho được một tên tội phạm và giữ hắn an toàn mạnh giỏi bên dưới chiếc nón của mình”
Tuy là tưởng tượng, Brown đã vạch rõ sự kiện. Một khi người ta đã khơi mạch cho cái giếng sâu không đáy là sự điên cuồng và thù hận của tấm lòng bình thường của một người, thì các hậu quả sẽ vô cùng khủng khiếp. “Tôi sở dĩ còn bước đi được, là chỉ nhờ ân điển của Đức Chúa Trời mà thôi”. Chỉ nhờ tự kìm chế và ân điển tái tạo, người ta mới giữ nổi điều răn thứ sáu.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Giết người là ác: SaSt 4:1-6 9:1-7
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao phải kể sự ghen ghét tương đương với tội giết người? Bạn đối phó ra sao với những cảm xúc giận dữ và thù ghét người khác?
2. Bạn có đồng ý với lập trường của tác giả liên hệ đến việc phá thai và gây mê cho người hấp hối (euthanasia) không? Tại sao có và tại sao không?
3. “Con đường đúng hơn và tốt hơn” mà tác giả ám chỉ, là gì?
TÌNH DỤC LÀ THIÊNG LIÊNG
Hồi còn nhỏ và lần đầu tiên đọc đến điều răn thứ bảy, tôi nghĩ (không biết là có hay không) rằng tà dâm chỉ là một cách ăn ở cư xử của “người lớn”. Từ đó trở đi, tôi (chắc chắn bạn cũng vậy thôi) được biết có một số người lớn thật sự xem chuyện biện hộ tình dục ngoài hôn nhân là dấu hiệu cho thấy họ đã thật sự trưởng thành rồi - “thành nhơn” là từ ngữ thiên hạ hay dùng - dầu tôi nghĩ rằng người ta đã dùng sai từ ngữ ấy. Nhưng khi có một học viên Trường Chúa nhật định nghĩa ngoại tình (tà dâm) là tội tự cho mình “già” hơn tuổi thật - theo nghĩa luân lý nếu không phải là nghĩa sinh lý - thì dường như tôi cảm thấy cậu ta đã tự bắn vào đầu mình bằng một phát súng nổ vang!). Nhưng đều mà điều răn thứ bảy phát biểu: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm”, là lời kêu gọi chúng ta phải trực diện, thứ nhất, là tình dục vốn chỉ được dành cho hôn nhân mà thôi, và thứ hai là phải xem hôn nhân như một mối liên hệ chung thủy suốt đời; thứ ba, những cuộc hôn nhân của người khác không thể bị xâm phạm bằng những liên hệ tình dục bất chánh. Một trong những dấu hiệu trưởng thành thật sự của một người, là lãnh hội được các nguyên tắc ấy và theo đó mà sống.
VAI TRÒ CỦA TÌNH DỤC
Kinh Thánh không hề cho rằng lạc thú tình dục là điều đáng ghê tởm, như thỉnh thoảng có một số Cơ Đốc nhân nghĩ như vậy. Những khúc sách như ChCn 5:18 và tt, và sách Nhã ca cho thấy Đức Chúa Trời là Đấng đã bày vẽ ra nó, hoàn toàn hậu thuẫn cho nó - khi nó thử đóng vai trò, đứng vào vị trí của nó! Nhưng hoạt động tình dục của người ta thường đứng sai chỗ - chẳng hạn khi nó bị thúc đẩy hướng về việc tìm kiếm những hành động “làm cho bỏ ghét”, hoặc để giải tỏa sự căng thẳng thể chất hay tinh thần, hoặc vì cô đơn, bực bội, vì ước muốn thống trị hay nhục mạ, hay chỉ là cách phản ứng theo thú tính đối với đối tượng, như thế làm giảm giá tình dục, biến nó thành tầm thường và xấu xa (dầu chỉ có tính cách kích thích ngắn hơn mà thôi) để lại sau lưng (một khi sự bồng bột đã qua rồi) nhiều chán chường hơn là sự thích thú.
Vậy vai trò và chủ đích của tình dục là gì? Như câu chuyện bà Êva đã được tạo dựng cho ông Ađam vạch rõ, Đức Chúa Trời muốn cho việc “trở nên một thịt” phải là một kinh nghiệm bộc lộ và nâng cao ý thức của hai đàng rằng khi đã tận hiến cho nhau, họ đã thuộc về nhau, người này cần đến người kia để tự hoàn thiện, để trở nên toàn vẹn (xem SaSt 2:18-24). Chính “tình yêu” mà hai đàng dấn thân vào, cũng phải “kết đôi” họ lại. Con cái sẽ do mối kết liên của họ mà ra đời, nhưng điều đó chỉ là thứ yếu; điều căn bản là việc phong phú hóa mối liên hệ giữa họ qua việc lập đi lập lại để “biết” rõ nhau như những con người thuộc về nhau trọn vẹn, không giữ lại chút gì cả. Vậy vai trò của tình dục là vai trò của sự chung thủy suốt đời nghĩa là hôn nhân, nơi mà kinh nghiệm tình dục cứ ngày càng tăng trưởng phong phú hơn, và hai vợ chồng cứ ngày càng chung thủy yêu mến nhau hơn trong mối liên hệ toàn diện.
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG LẦM LẠC
Do đó mà việc liên hệ tình dục “qua đường” (gọi là ngoại tình khi một trong hai người đã kết hôn, hay tà dâm nếu chưa kết hôn) không thực hiện được lý tưởng mà Đức Chúa Trời đã đặt định cho tình dục, vì nó thiếu môi trường để hai người thề nguyện chung thủy với nhau. Trong chuyện liên hệ tình dục “qua đường”, người đàn ông không nhất thiết “yêu” người phụ nữ mà chỉ lợi dụng và do đó là lạm dụng người phụ nữ (cho dù người ấy có tự ý tự nguyện đi nữa). Chuyện thủ dâm cũng không hoàn thành chủ đích của Đức Chúa Trời: tình dục chỉ dành cho việc liên hệ tiếp xúc, chớ không phải việc việc phiêu lưu vị kỷ.
Mối liên hệ theo ý muốn của Đức Chúa Trời cũng phải là bình thường (giữa hai người khác giới tính, trái với đồng tính luyến ái) mà thôi. Đức Chúa Trời nghiêm cấm thói xấu đồng tính luyến ái (LeLv 18:22 RoRm 1:26 và tt). Hiện nay thiết tưởng cần nói, và cả là cần thét to lên nữa, rằng chấp nhận theo ý chỉ Đức Chúa Trời một đời sống mà Kinsey gọi là “đứng bên lề” (nghĩa là không tham gia chuyện làm tình), người ta không hề bị tai hại gì cũng không nhất thiết làm giảm đi nhân tính nữa. Dầu sao Chúa Giê-Xu, con người trọn vẹn, sống độc thân; và Phaolô cho dù có bị vợ bỏ, có bỏ vợ hay chẳng bao giời kết hôn cả, cũng đã sống độc thân qua suốt cuộc đời phục vụ Chúa của mình. Không phải tất cả những ai muốn có một người bạn trăm năm đều được như ý, nhưng khi bởi hoàn cảnh Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải sống như vậy, Ngài cũng sẽ giúp chúng ta có đủ khả năng để sống theo tiếng gọi ấy.
TÌNH DỤC LÀ MỘT TẤM BẢNG CHỈ ĐƯỜNG
Trong cánh rừng già của sự phóng túng theo thời trang này, người ta không còn biết ý nghĩa và mục đích của tình dục nữa, và vinh quang của nó cũng đã bị đánh mất. Xã hội chìm trong đêm tối của chúng ta đang cần gấp được kêu gọi để quay trở về với quan điểm cao thượng và cao thượng hóa tình dục mà Kinh Thánh hàm ý đề cập trong điều răn thứ bảy, tức là, tình dục được dành cho các mối quan hệ bằng việc dấn thân trọn vẹn và vĩnh viễn, bằng cách hòa lẫn tình cảm, lòng trung thành, và phương diện sinh học của chúng, để chuẩn bị và giúp chúng ta đi vào mối quan hệ với Đấng Christ - “hạnh phúc được tự do, được tự ý tự nguyện kết hợp” với Đức Chúa Trời, loài người và thiên sứ “trong niềm hoan lạc của tình yêu thương mà so sánh với nó thì tình yêu và sự khoái lạc cực điểm giữa một người nam và một người nữ trên đất này sẽ chỉ như sữa đem so với nước lả mà thôi” (C.S.Lewis).
Như thế sẽ vô cùng lý thú phải không? Vâng, đó là một trong những sự việc sẽ xảy ra, cho nên chúng ta chớ nên lấy làm lạ vì Đức Chúa Trời đã tạo ra trên đời này một điều cũng lý thú tương tự như vậy. Trong việc này, bạn không thể khinh dể nó, lại càng không thể thần thánh hóa nó. Sự trìu mến ngọt ngào giữa hai giới kết hợp (như chuyện vẫn luôn luôn xảy ra) với ý thức mối quan hệ lứa đôi - dầu có trọn vẹn đến đâu đi nữa cũng chẳng bao giời đạt được mức toàn vẹn, thật vậy tấm bảng chỉ đường bằng châu ngọc dẫn chúng ta hướng về Đức Chúa Trời. Khi những người có tâm trạng của Romeo và Juliet nói: “điều này lớn lao hơn chúng ta”, là họ nói đúng hơn là điều mà thỉnh thoảng họ nhận thức được. Nhưng một tấm bảng chỉ đường chỉ giúp được cho những ai chịu hướng về phía con đường nó chỉ, và nếu bạn cứ nằng nặc đòi đóng trại suốt đời bên cạnh một tấm bảng chỉ đường đẹp đẽ đáng yêu, tức bạn là một tiên gàn vậy; bạn sẽ chẳng đến được đâu cả.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Tình dục bị quan niệm sai: ChCn 6:20-7:27 ICo1Cr 6:9-20
Niềm vui của tình yêu nhục dục: Nhã ca 1-8
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Kinh Thánh quan niệm như thế nào về hôn nhân? Tình dục ngoài hôn nhân là sai trật lý tưởng của Đức Chúa Trời như thế nào?
2. Mục đích đầu tiên của Đức Chúa Trời liên hệ đến tình dục là gì? Từ ngữ “một thịt” nói lên điều gì trong vấn đề ấy?
3. Nếu có người thú nhận với bạn là người ấy có khuynh hướng đồng tính luyến ái, bạn sẽ khuyên bảo người ấy như thế nào?
BẮT NÓ, ĂN TRỘM!
Sau bản thân và vợ mình, của cải trần gian thân cận với bạn nhất, và Đức Chúa Trời muốn sử dụng của cải để bảo vệ cho bạn, do đó Ngài truyền lịnh không ai, được phép cướp đi hay bớt đi số của cải của người lân cận mình.
”...Nhưng đây là một thói xấu rất phổ biến...vì...trộm cắp chẳng những có nghĩa là dốc túi tiền người ta, nhưng còn có nghĩa là lợi dụng người khác ngoài chợ, trong các cửa hàng, các quán rượu, quán bia, xưởng thợ, tóm lại, là bất cứ nơi nào có việc trao đổi giao hoán và trả tiền để mua hàng hòa và công sức lao động”.
Luther đã bắt đầu phần chú giải điều răn thứ tám như trên, để tập trung chú ý vào nguyên tắc quân bình bao hàm trong đó. Yêu thương người lân cận chẳng những đòi hỏi chúng ta phải xem con người của người lân cận mình là thiêng liêng (điều răn thứ sáu), hôn nhân của người ấy là thánh khiết (điều răn thứ bảy), mà cũng phải xem tài sản và những gì chúng ta mắc nợ và phải trả cho người ấy cũng là thánh thiêng y như vậy.
TÀI SẢN
Ẩn đàng sau điều răn này, là quan điểm của Kinh Thánh về quyền tự hữu, tức là làm chủ, làm quản lý. Theo luật pháp loài người tài sản của tôi là những gì tôi sở hữu và có quyền sử dụng theo ý tôi muốn, khác với những gì tôi chỉ được sử dụng do vay mượn theo điều kiện người chủ áp đặt. Tuy nhiên người tin Kinh Thánh biết rằng những gì mà luật pháp loài người bảo là tôi sở hữu - tiền bạc, tài vật, các quyền hợp pháp, và chức tước - đều thật ra là những điều Đức Chúa Trời đã ký thác cho tôi. Theo ngôn ngữ trong một ẩn dụ của Chúa Giê-Xu, đó là các ta lâng, Chúa tôi giao cho tôi để tạm thời thay mặt Ngài sử dụng chúng. Có một ngày, tôi sẽ bị đòi hỏi phải tính sổ xem tôi đã sử dụng các nguồn tài nguyên mà tôi đã được được ủy quyền để sử dụng đó như thế nào.
Sự cám dỗ trộm cắp tài sản - nghĩa là cướp đoạt của mình một người khác điều mà người ấy có quyền sở hữu - nảy sinh bởi vì con người sa ngã, do bản năng, luôn luôn muốn mình được nhiều hơn người khác. Sự ganh đua mù quáng, được bộc lộ bằng cùng một sự ghen tị cũng mù quáng tương tự, là yếu tính của sự kiêu ngạo của ma quỉ khi nó chống lại Đức Chúa Trời, là lòng kiêu ngạo của Ca-in khi giết A-bên (Sáng :4-8), là lòng kiêu ngạo của Rêbêca và Giacốp khi cướp quyền trưởng nam của Êsau (Sáng 27); và nó cũng là yếu tính của lòng tham không đáy bị mười điều răn kết án, chính là nguyên nhân của việc tham làm bất chánh mà điều răn thứ tám nghiêm cấm. Nhưng ý chỉ của Đức Chúa Trời không phải không muốn chúng ta được quyền sở hữu nhờ các phương tiện đúng đắn, và thái độ phải lẽ duy nhất đối với tài sản tha nhân là phải cẩn thận quan tâm đến việc tôn trọng đầy đủ quyền sở hữu của họ.
CÁC PHƯƠNG PHÁP TRỘM CẮP
Chẳng có gì để nghi ngờ là nguyên tắc này vừa hết sức rõ ràng vừa phổ biến. Dầu sao tất cả các bộ luật ở khắp nơi đều luôn luôn bảo vệ quyền tự hữu, lên án việc trộm cắp, và đòi hỏi phải bồi hoàn theo như cách Kinh Thánh dạy (Dan Ds 5:7 ChCn 6:30 và tt). Nếu không làm như vậy, làm thế nào để tổ chức sinh hoạt xã hội cho có trật tự được? Dường như vấn đề này chẳng cần phải bàn thêm gì nữa.
Nhưng xin chờ một chút. Nguyên tắc này đã được áp dụng như thế nào? Có lẽ nó vượt xa hơn điều chúng ta có thể nhận thức. Chẳng hạn như có chuyện trộm cắp thì giờ, có lẽ là lối trộm cắp phổ biến nhất ngày nay. Các công nhân ký hợp đồng để làm việc bao nhiêu giờ để được hưởng bao nhiêu lương, nhưng đã không làm đúng như vậy. Chúng ta đến muộn về sớm, kéo dài thì giờ uống cà phê, ăn trưa, uống trà, và phung phí thì giờ giữa các thời điểm ấy. Đó là ăn trộm vậy.
Cũng có chuyện trộm cắp khi các nhà buôn không định đúng giá trị tiền bạc. Cựu Ước lên án việc đong, đo gian lận (PhuDnl 25:13-15 AmAm 8:5); việc làm tương đương hiện nay là tăng quá đáng giá hàng hóa và công giá (tiền lương, tiền công, tiền phục vụ), lạm dụng nhu cầu lẫn nhau. Dầu có trục lợi và mọi hình thức giao hoán bất công đều là trộm cắp.
Hơn nữa, cũng có trộm cắp khi không chịu trả nợ, vì thế là cướp đoạt của người mà mình mắc nợ quyền sử dụng số tiền mà người ấy đáng được hưởng đúng với tinh thần luân lý đạo đức. Có một số người vẫn mang công mắc nợ dây dưa, không chịu trả. Nhưng Kinh Thánh kết án việc làm đó. Phaolô viết trong RoRm 13:8 “Đừng mắc nợ ai chi hết”. Nếu chúng ta thật lòng yêu thương người lân cận mình, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn trong việc công nợ cho người ấy”
Cuối cùng, có chuyện ăn trộm danh tiếng của người khác, hủy hoại uy tín của người ta bằng chuyện ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu sau lưng người ấy. Shakespeare viết “Kẻ nào trộm cắp túi bạc của tôi là ăn cắp vật chẳng ra gì; nhưng kẻ ăn cắp danh tiếng tốt của tôi...mới là kẻ làm cho tôi nghèo nàn thật sự”. Như vậy, ngồi lê đôi mách là vi phạm điều răn thứ chín; hậu quả của nó sẽ là vi phạm điều răn thứ tám.
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng câu “ngươi chớ trộm cắp” là không thích hợp với những con người đáng kính như chúng ta. Có lẽ chúng ta cần suy nghĩ chín chắn hơn. Phaolô viết: “Kẻ vốn hay trộm cắp chớ trộm cắp nữa” (Eph Ep 4:28). Phải chăng “Bắt lấy nó, ăn trộm” (trong Anh văn, câu này chỉ có hai từ “stop, thief” dịch theo nghĩa đen là “thôi (bắt), trộm") cũng là câu Chúa phán với bạn và tôi?
BỒI HOÀN
Bây giờ hãy tỏ ra thành thật. Chúng ta vừa gợi ý về các phương pháp trộm cắp. Bạn có ngạc nhiên vì thất chính mình cũng từng ăn trộm theo như các phương pháp vừa kể? Nếu có, thì giờ đây, Đức Chúa Trời kêu gọi bạn hãy ăn năn (có nghĩa là thay đổi) và bồi hoàn cho những ai đã bị mình trộm cắp. Xa chê, nhà nghệ sĩ trong ngành bóc lột, bày tỏ sự ăn năn của ông ta bằng cách hứa bồi hoàn gấp tư tất cả số tiền ông đã cướp đoạt một cách bất công (LuLc 19:8 ông đã áp dụng điều luật bốn con chiên cho một con của XuXh 22:1). Trong cơn phục hưng tại Belfast vào những năm 1922-23, các công nhân đóng tàu đã đem trả lại các công cụ và trang thiết bị mà họ đã “chôm” với số lượng lớn đến nỗi người ta phải cất thêm một nhà kho để thâu hồi. Điều này rõ ràng đã chứng minh cho thực tại thuộc linh. Giữa vòng chúng ta, có bao nhiêu thực tại thuộc loại như thế?
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Trộm cắp trong gia đình: Sáng 27:1-46; 29:15-30 30:25-31:42
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Theo bạn nghĩ tại sao Luther xem việc lợi dụng người khác là một hình thức trộm cắp?
2. Trộm cắp liên hệ với lời khuyên “Đừng mắc nợ ai chi hết” như thế nào?
3. Bạn có đồng ý rằng danh tiếng tốt của một người còn quan trọng hơn túi bạc của người ấy không? Tại sao có và tại sao không?
CHÂN LÝ VÀ THIÊNG LIÊNG
Nếu tôi bảo bạn là thằng nói dối, chắc bạn cảm thấy mình bị sỉ nhục sâu xa, vì theo phạm vi luân lý đạo đức, chúng ta nghĩ về những kẻ nói dối là những người mà lời lẽ họ nói ra là không đáng tin. Theo điều răn thứ chín và nhiều cỗ khác nữa, chúng ta biết rằng Kinh Thánh cũng đánh giá y như vậy. Có một số người cho rằng nói dối là một nghệ thuật tinh xảo, nhưng Kinh Thánh nhìn nó một cách ghê tởm, và chúng ta tin rằng quan điểm về chân lý là thánh thiêng và nói dối là điều đáng xấu hổ mà Kinh Thánh phản ảnh, sẽ giúp ích nhiều cho việc lành mạnh hóa các nền văn hóa.
LÀM CHỨNG DỐI
Điều răn “chớ nói chứng dối cho kẻ lân cận mình” xuất hiện trong XuXh 20:16 và PhuDnl 5:20. Từ ngữ “dối” trong câu trước có nghĩa là “không đúng” (untrue); từ ngữ trong câu sau có nghĩa là “không thành thật” (unsincere), do đó, chỉ ra mục đích muốn lừa gạt mà sự giả dối đó ấp ủ. Bản NEB dịch là “dựng chứng dối” nhấn mạnh sự kiện điều răn này liên quan trước hết đến tòa án, nơi công lý chỉ có thể được thực hiện nếu các nhơn chứng nói “sự thật, toàn thể sự thật, và chỉ sự thật mà thôi” - một công thức bắt buộc chúng ta phải nhớ rằng thêm thắt, sự thật nửa vời và im lặng khiến người ta hiểu lầm, tất cả chung quy đều có thể là nói dối. Nhưng nguyên tắc phải xem chân lý là thiêng liêng còn vượt xa hơn tòa án, và chạm đến cả đời sống chúng ta.
TẠI SAO NÓI DỐI?
Tại sao người ta lại nói dối với nhau và nói dối về nhau? Tại sao Sa tan ("vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối") lại nói dối với bà Êva trong vườn Êđen? Một phần vì quỷ quyệt, một phần vì kiêu ngạo. Khi bạn nói dối để triệt hạ một người khác, đó là quỷ quyệt; khi bạn nói dối để gây xúc động mạnh, để khiến người ta cảm động rồi lợi dụng người ta, không cho người ta thấy góc cạnh xấu của bạn, đó là kiêu ngạo. Sa tan đã (và đang) nói dối vì nó thù ghét Đức Chúa Trời và những người tin kính, và muốn sách động họ nổi lên chống lại Đức Chúa Trời. Loài người nói dối để che giấu sự sơ hở của mình và mưu cầu lợi lộc. Lòng kiêu ngạo bị tổn thương của dân Do thái khiến họ dựng lên các nhơn chứng dối trước tòa án để chống lại cả Chúa Giê-Xu lẫn Êtiên (Mat Mt 26:59 Cong Cv 6:13). Sợ hãi, thù ghét, muốn báo thù, muốn lừa dối để khoe khoang, gian lận và ước muốn được nổi bật sáng chói hẳn lên bằng cách kể một câu chuyện hay cũng như nhiều động cơ khác nữa, đã thúc giục người ta nói dối.
Lẽ dĩ nhiên nói dối dưới một vài hình thức (gồm cả láo trắng, ít khi trắng được như chúng ta nói) là một hoạt động phổ quát đến nỗi trở thành chứng cớ bắt buộc nơi sự giả dối của chúng ta, như các ổ khóa cho tất cả các ngôi nhà và các cánh cửa xe hơi của chúng ta vậy.
ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ SỰ NÓI DỐI
Nói dối chẳng những sỉ nhục người lân cận chúng ta, mà ta cho là ngu dại, nhưng cũng làm nhục cả Đức Chúa Trời nữa, là Đấng bạn không thể nào cho là ngu dại được. Một Đức Chúa Trời nói thật, giữ lời hứa :không thể nói dối: (Tit Tt 1:2 cũng xem Dan Ds 23:19 ISa1Sm 15:29) Đấng muốn thấy chúng ta chính lè hình tượng Ngài, tự nhiên “ghét...lưỡi dối trá...kẻ làm chứng gian dối là một phần của hình tượng Sa tan chớ không phải của Đức Chúa Trời cho nên chúng ta chớ lấy làm lạ rằng “những kẻ ưa thích cùng làm sự giả dối” do đó đều tự loại trừ mình khỏi thành phố của Đức Chúa Trời (KhKh 22:15 đối chiếu 21:27). Nếu không có sự chân thật cũng không thể có sự tin kính. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con!
CHÂN LÝ VÀ TÌNH YÊU
Nhưng khi người ta bắt đầu nói thật, nhiều vấn đề sẽ nảy sinh. Có một số người rõ ràng chúng ta không thể nói thật với họ - những người tàn phế chưa mạnh mẽ đủ để nghe các tin tức chẳng lành; các kẻ thù khi có chiến tranh, là những kẻ không thể tiết lộ tin tức, và như Ra háp (Giôsuê 2) và Carrie ten Boom, chúng ta phải giấu họ về số người đang trốn tránh; những kẻ loạn trí và xấu xa, có thể lợi dụng điều bạn nói với họ để làm hại người khác; quảng đại quần chúng như trường hợp một chính trị gia muốn được chấp thuận một kế hoạch lợi ích của hậu quả của nó và vân vân. Chẳng có ai nghi ngờ gì về việc khi gặp những trường hợp như thế, những người có trách nhiệm phải giả bộ tảng lờ. Nhưng làm như vậy có phù hợp với điều răn thứ chín không?
Về nguyên tắc chắc có. Điều bị cấm đoán là việc làm chứng dối chống lại người lân cận mình - nghĩa là như chúng ta đã nói, là việc nói dối do lòng kiêu ngạo muốn triệt hạ người ấy, để do đó, tự đề cao mình. Điều răn tích cực hàm ngụ trong hành động tiêu cực đó, là chúng ta phải tìm cách làm điều tốt, điều ích lợi cho người lân cận mình và nói ra sự thật với người ấy và về người ấy nhằm mục đích vừa kể. Khi tình yêu thương muốn làm lợi ích cho người ấy thúc giục chúng ta phải im lặng đừng nói ra sự thật, vì nếu nói ra, người ấy sẽ bị hại, chúng ta đã giữ được phần tinh thần của điều răn thứ chín vậy. Trong những trường hợp đặc biệt như chúng tôi đã kể trên, tất cả các cách thức hành động từ chúng đều có cái gì đó là xấu, gây tai hại cho họ, cho nên nói dối thẳng thừng như Ra háp (Gios Gs 2:4,5 xin chú ý lời khen bà trong Gia Gc 2:25) thật ra có thể là phương pháp tốt nhất, ít xấu xa tai hại nhất, và là cách bày tỏ tình thương yêu chân thật nhất với cả hai đang trong cuộc.
Nhưng một lời nói dối, cho dù có do tình yêu thương, lòng trung thực, và việc phải nhìn nhận không tránh né vào đâu được là nói thật sẽ tạo ra hậu quả xấu, còn làm thinh sẽ càng tệ hại hơn - một lời nói dối do tất cả các trường hợp trên thúc đẩy vẫn là một điều xấu (dĩ nhiên trừ phi khi chúng ta đồng ý với chủ trương của những người Dòng Tên (Jesuits) theo lối xưa và những người theo cơ hội chủ nghĩa hiện đại, là cứu cánh biện minh cho phương tiện). Làm chứng dối để binh vực người lân cận mình, không xấu bằng làm chứng dối để chấp lại người ấy; nhưng nói dối như vậy, cho dù có vẻ cần thiết, vẫn là xấu chớ không phải là tốt, và con người có lòng ngay thật biết rõ như vậy. Người ấy sẽ nhận thấy ngay là mình đã bị ô uế; và người ấy sẽ đến ngay với Đấng Christ để xin huyết Ngài tẩy sạch mình, và tìm cách để thu xếp một đời sống duy nhất để sống với Đức Chúa Trời thánh khiết của chúng ta, nghĩa là bằng việc được Ngài tha tội. Một lần nữa, chúng ta phải nói: Lạy Chúa, xin thương xót chúng tôi! - và xin chớ đưa chúng tôi vào loại cám dỗ “đặc biệt” như vậy, khi chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trước mặt chúng tôi là con đường tội lỗi, nhưng xin cứu chúng tôi khỏi điều ác.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Làm chứng dối: IVua 1V 21:1-24 Cong Cv 6:8-15 Mat Mt 26:57-75
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Có những điểm đúng nào khi tác giả nói nói thật chẳng những chỉ quan trọng trước tòa án, mà còn quan trọng trong cả đời sống nữa?
2. Tại sao Sa tan lại nói dối với bà Êva? Có khi nào bạn trình bày sai sự thật do cùng những động cơ thúc đẩy giống như vậy không?
3. Tại sao nếu không nói thật sẽ không có sự tin kính?
HÃY HÀI LÒNG
Trong điều răn thứ mười “Ngươi chớ tham lam” ngọn đèn pha của Đức Chúa Trời chuyển từ các hành động sang các thái độ, từ các chuyển động sang các động cơ thúc đẩy, từ các hành vi bị cấm đoán sang ước muốn bị cấm đoán. Từ ngữ “tham” nói lên tư tưởng tìm lợi bất chánh, đáng xấu hổ. Ở đây, tham làm xuất hiện như anh em chú bác của ghen tị; bạn thấy ai đó có vật gì đó, muốn cướp lấy làm của riêng mình, như A-háp muốn chiếm đoạt vườn nho của Nabốt trong IVua 1V 21:1-29 vậy. Trong thư Côlôse, Phaolô gọi tham làm trở thành thần tượng, vì các vật tham muốn trở thành vị thần của bạn, điều khiển kiểm soát cả cuộc đời bạn.#
Tham lam là gốc rễ của mọi điều xấu điều ác trong xã hội; các ham muốn phá sập ranh giới bắt đầu tạo ra hành động ganh đua. Đavít chiếm đoạt Bátsêba (như thế là trộm cắp, vi phạm điều răn thứ tám), khiến bà ta thụ thai (như thế là phạm vào điều răn thứ bảy) rồi muốn tránh tai tiếng, đã thu xếp cho chồng bà ta là Uri phải bị giết (như thế là vi phạm điều răn thứ sáu), mà tất cả những điều đó chỉ bắt đầu với việc Đavít tham vợ người lân cận mình, vi phạm điều răn thứ mười (xem IISamuên chương 11).
Cũng tương tự như vậy, Aháp tham vườn nho của Nabốt nằm bên cạnh vườn nho của mình, khiến nhà vua dựng lên các nhân chứng để cáo gian Nabốt (phạm điều răn thứ chín), xử tử ông (phạm điều răn thứ sáu), và sát nhập vườn nho của ông vào đất của hoàng gia - nói khác đi là Aháp đã ăn trộm một cách hợp pháp (phạm điều răn thứ tám).
Rồi còn có Acan (Giôsuê 7 chủ ý câu 21), và Giuđa, vì tham lam đã bị dẫn đến chỗ vi phạm điều răn thứ tám (GiGa 12:6) rồi cả hai điều răn thứ sáu và thứ chín cùng một lần, khi ông phản nộp để Chúa Giê-Xu bị xử tử bằng một hành động tỏ ra tôn kính giả mạo (Mat Mt 26:48-50), tất cả chỉ vì tiền (Mat Mt 26:14-16 đối chiếu 26:3-5). Có lẽ lúc viết rằng “sự tham tiền bạc là cõi rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn” (ITi1Tm 6:10), Phaolô đã nghĩ đến Acan và Giuđa cũng như số người mà ông quen biết trực tiếp.
LỜI KÊU GỌI HÃY HÀI LÒNG
Nhưng về phương diện tích cực “ngươi chớ tham ...vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” là tiếng gọi hãy hài lòng với số phận của mình. Sự hài lòng mà điều răn thứ mười đề nghị là điều bảo đảm tối cao chống lại sự cám dỗ vi phạm các điều răn từ thứ sáu đến thứ chín. Con người bất mãn bị nội tâm xui giục hãy gom thâu tất cả về mình, nhìn thấy tha nhân chỉ là các công cụ để mình lợi dụng hầu thỏa mãn tánh tham lam của mình; nhưng con người biết an phận được tự do, chẳng lo nghĩ gì đến lợi lộc của người lân cận mình. Phaolô viết: “Sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn” (ITi1Tm 6:6).
Kinh Thánh trình bày sự thỏa lòng như là một bí quyết thuộc linh. Nó là một chiều hướng hạnh phúc, tự nó lại là kết quả của một mối quan hệ. Tophady đã tập trung được nhiều điều vào đó bằng một bài thơ bắt đầu bằng câu: “Hỡi hạnh phúc, tên ngươi thật đáng yêu. Ngươi ngự trị ở đâu?, hãy nói cho ta biết, ở đâu?” ông viết:
Đối tượng đầu tiên mà tôi mong ước,
Là Chúa Giê-Xu đã chịu đóng đinh vì tôi.
Tất cả hạnh phúc mà tôi tìm cầu
Đều chỉ tìm thấy trong Ngài mà thôi.
Làm đẹp lòng Ngài và biết rõ Ngài
Là phước hạnh của chúng tôi dưới đất này
Được nhìn thấy và yêu thương Ngài
Là phước hạnh của chúng tôi trên trời
Khi tôi cảm thấy yêu mến Ngài
Thì mọi vật đều tràn đầy niềm vui
Ở đây, nguyện tôi được đồng đi với Ngài
Để đến trước hiện diện Ngài
Xin cho tôi chỉ sở hữu chính mình Ngài mà thôi
Là hạnh phúc trọn vẹn!
Chừng đó, tôi sẽ chứng minh là mình được phước thật sự
Cả ở dưới đất lẫn ở trên trời
Nhận biết tình yêu thương của Đấng Christ là nguồn mạch duy nhất để từ đó sự thỏa lòng tuôn trào.
Tuy nhiên, Chúa Giê-Xu đã chỉ ra một kẻ thù chí tử của sự thỏa lòng: sự lo lắng (xem Mat Mt 6:25-34). Nhưng Ngài bảo rằng với một con cái Đức Chúa Trời (và toàn thể Cơ Đốc nhân cũng vậy) sự lo lắng luôn luôn là vô dụng, vì nó chẳng cải thiện được điều gì cả (câu 27) cho nên hoàn toàn không cần thiết: Tại sao vậy? vì “Cha các ngươi ở trên trời biết rõ” các nhu cầu của các ngươi (xem câu 32), và chúng ta có thể trông cậy nơi Ngài để cung cấp các nhu cầu cho mình khi chúng ta biết “trước hết tìm kiếm Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài” (câu 33). Không nhìn thấy như thế để đánh mất sự thỏa lòng, chứng tỏ chúng ta có “ít đức tin” (câu 30). Chúng ta có thể tin cậy tuyệt đối vào người Cha trọn vẹn của mình là Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc chúng ta hằng ngày. Cho nên, khi đã nhận thức được rằng nếu hoạch định là một bổn phận còn lo lắng là một tội, vì người phụ trách là Đức Chúa Trời để chúng ta đối đầu mọi hoàn cảnh bằng thái độ “dầu sao tôi cũng ca ngợi Đức Chúa Trời” đó là bí quyết của đời sống biết thỏa lòng.
Như thế cũng chưa phải là hết. hãy nhìn xem Phaolô là một con người luôn luôn biết thỏa lòng như chưa hề có ai khác biết hài lòng như vậy.Lúc bị giam trong ngục, ông viết: “Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào cũng thỏa lòng ở vậy...Tôi biết (cái bí quyết) chịu nghèo hèn cũng như được dư dật...Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi Pl 4:11-13). Bí quyết công khai mà Phaolô ám chỉ ở đây cụng được nói toạc ra trong HeDt 13:5 và tt: “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. Như vậy chúng ta lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” Nhận thức được sự hiện diện Chúa yêu thương đã hứa với chúng ta, Ngài vừa thu xếp mọi hoàn cảnh của chúng ta, vừa giúp sức cho chúng ta đối phó với chúng, là bí quyết sau cùng của sự thỏa lòng vậy.
ƯỚC MUỐN ĐƯỢC HƯỚNG DẪN
Dĩ nhiên tất cả đều là loại thọ tạo có nhiều tham muốn. Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người như vậy; nên các triết thuyết như Khắc kỷ (Stoicism) và các tôn giáo như Phật giáo nhằm mục đích diệt dục thật ra đều có khuynh hướng vô nhân đạo. Nhưng ham muốn tội lỗi cần được tái định hướng, để chúng ta khỏi tham làm tài vật của tha nhân, trái lại, chỉ mong muốn cho họ được lợi ích tốt lành, hầu qua đó, danh Đức Chúa Trời được cả sáng. Khi Thomas Chalmers nói về “năng lực thúc đẩy một tình cảm mới”, là ông nghĩ đến một phương pháp theo đó sự nhận biết về tình yêu thương của Cứu Chúa tôi sẽ dẫn tôi xa lánh những nẻo đường vô bổ của việc tham lam tự phụ bản thân để đặt Đức Chúa Trời lên hàng đầu thứ đến là tha nhân, và sau cùng mới tới việc nghĩ đến chính mình. Chúng ta đã kinh nghiệm từng trải bao nhiêu quyền năng biến hóa đó của Đức Chúa Trời? Chính tại đây, người ta mới tìm thấy chất thuốc cuối cùng để giải độc cho sự tham lam.
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Từ chỗ bất mãn đến chỗ thỏa lòng: Thi thiên 73
Thỏa lòng khi bị cầm tù: Phi Pl 4:4-20
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Làm thế nào sự hài lòng đề nghị trong điều răn thứ mười bảo vệ được chúng ta khỏi vi phạm chín điều răn trước?
2. Bạn có đồng ý các triết thuyết nhằm mục tiêu diệt dục là sai lầm không? Tại sao có và tại sao không?
3. Thomas Chalmers ngụ ý gì khi ông nói về “năng lực thúc đẩy một tình cảm mới”?
HỌC HỎI TỪ LUẬT PHÁP
Đức Chúa Trời muốn dùng Mười Điều răn để dạy dỗ chúng ta điều gì ngày nay? Có người bảo rằng con người hiện đại chẳng có gì để học hỏi nơi các điều răn cả, nhưng sự thật không phải như vậy. Tuy đã có từ hơn 3000 năm trước, lời giáo huấn cổ xưa này của Đức Chúa Trời là sự mặc khải tâm tư ý tưởng của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại, cũng như Phúc âm cũng đã cổ xưa đến gần 2000 năm rồi, và nó thích hợp cho chúng ta ít nhất về ba phương diện.
Thứ nhất, Mười Điều Răn vạch rõ Đức Chúa Trời muốn chúng ta trở thành những con người như thế nào. Danh sách những điều cấm đoán cho chúng ta biết Đức Chúa Trời ghét những hành động nào, do đó, ta có cách ăn ở cư xử như thế nào, Ngài muốn thấy chúng ta có những hành động như thế nào. Trong luật pháp, Đức Chúa Trời đã nói “Không” với những điều gì? Thái độ bất trung và bất kính đối với Ngài, làm nhục và làm hại người lân cận của chúng ta. Mà ai là người lân cận của chúng ta? Chúa Giê-Xu đã đặt câu hỏi đó và cũng đã trả lời: đó là tất cả những người chúng ta gặp. Vậy Đức Chúa Trời muốn chúng ta trở nên người như thế nào? Những con người được giải phóng khỏi những điều xấu xa gian ác đó; những con người tích cực yêu mến Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo dựng họ, và yêu thương những người lân cận của họ, cũng do chính Ngài dựng nên, mỗi ngày trong đời sống; tóm lại, là những con người giống như Chúa Giê-Xu. Ngài chẳng những là Con đời đời của Đức Chúa Trời, mà còn là con người trọn vẹn của Ngài nữa. Một trật tự cao quá chăng? Vâng nhưng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Đấng Tạo Hóa chúng ta đòi hỏi chúng ta phải phản chiếu sự vinh hiển đạo đức của Ngài. Ngoài việc ấy, còn việc gì có thể làm đẹp lòng Ngài được?
BA CÔNG DỤNG
Nền thần học cải chánh đã không tách rời Đức Chúa Trời khỏi luật pháp Ngài, nhưng nghĩ rằng nó là con người, là năng lực của chính Ngài, là một Lời phán mà Đức Chúa Trời tiếp tục công bố cho thế gian qua Kinh Thánh và lương tâm, và qua đó, Ngài vẫn thường xuyên hành động trong đời sống loài người, là điều rất đúng. Khi vạch rõ phương pháp tiếp cận như thế, các thần học gia Cải Chánh bảo rằng luật pháp củ Đức Chúa Trời có ba công dụng từ trật tự xã hội; thứ hai, để thuyết phục, cáo trách chúng ta về tội và dẫn chúng ta đến với Đấng Christ để được sống; và thứ ba, để thúc giục chúng ta vâng lời Ngài, nhờ các tiêu chuẩn và những điều khoản phê chuẩn, tất cả đều nói lên chính bản tính của Đức Chúa Trời. Ở đây, chúng ta đang bàn về điểm thứ ba này.
LUẬT THIÊN NHIÊN
Thứ hai, Mười Điều Răn vạch rõ cho chúng ta nếp sống như thế nào là thật sự tự nhiên. Nhiều thần học gia đã hiểu rất đúng rằng Mười Điều Răn là bản tuyên ngôn luật “tự nhiên”, là quy luật của bản tính chúng ta. Mệnh đề này có nghĩa rằng những gì đã được truyền ra đó, chẳng những phù hợp với (tuy nó vượt xa) “công việc của một bộ luật” được viết lên lương tâm của mỗi người một cách đầy đủ hoặc ít hoặc nhiều (xem RoRm 2:12 và tt(, lại còn phác họa sơ nét phần hình thức, cách ăn ở cư xử duy nhất có thể thỏa mãn đầy đủ bản tính con người. Xa lìa nó, cho dù là vô ý vô tình, cũng không thể tránh khỏi việc sẽ không giữ trọn được nó, một khi người ta đi lệch khỏi công thức “Đức Chúa Trời trước nhất, thứ đến là tha nhân cuối cùng mới tới bản thân ta” vì xem đó như một công thức chỉ toàn đem đến sự khốn khó là họ đã tự chứng minh không hiểu rõ bản thân.Thật ra đó chính là công thức duy nhất từng đem đến sự tự do nội tâm và sự thỏa lòng suốt đời cho bất cứ ai, và chúng ta phải vui mừng vì Đấng Christ là Thầy chúng ta đã cương quyết hướng dẫn các môn đệ Ngài để họ phải quay về với nó.
Người ta hỏi rằng luật pháp của Đức Chúa Trời bó buộc tất cả mọi người, hay chỉ bó buộc các tín hữu mà thôi. Câu trả lời là nó bó buộc tất cả - thứ nhất, vì Đức Chúa Trời đã tạo ra tất cả chúng ta; và thứ hai, vì chúng ta đã được tạo dựng như vậy, cho nên nếu không chịu học tập để vâng giữ luật pháp chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc và sự hoàn thiện mà chúng ta vì đó được dựng nên.
Ở đây có một nghịch lý tốt nhất không nên giấu kín nhưng phải bảy tỏ. Sự hoàn thiện chúng ta đề cập ở đây chỉ được nhận biết từ bên trong bởi những người đã được nếm trải và nhìn thấy nó; từ bên ngoài nhìn thấy điều hoàn toàn trái ngược lại. Điều này phản ảnh sự thành công của Sa tan khi nó thuyết phục chúng ta, như có lần nó đã thuyết phục bà Êva, rằng không thể có sự hoàn thiện nếu không có việc tự khoan dung không hạn chế - một trong số rất nhiều ảo tưởng của tâm trí nó đã tạo ra. Nhưng Chúa Giê-Xu đã dùng ngụ ngôn để đề cập việc thà chặt tay chân, hay móc mắt mình đi để được sống (Mac Mc 9:43-48) và thật sự từ bỏ chuyện cưới gả vì nước thiên đàng (Mat Mt 19:12), và kêu gọi những người theo Ngài hãy tự chối mình, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng nói “Không” với bất cứ điều gì và tất cả những gì mà nếu nói “Vâng” sẽ là tự nhiên hơn. Việc này có thể thực hiện được chăng? Được - bởi vì Đức Chúa Trời dùng việc chúng ta tự tách riêng mình ra để gắn chặt chúng ta vào với chính Ngài, đổ đầy chính Ngài cho chúng ta, điều đó có nghĩa là sự sống, ánh sáng và niềm vui nội tâm. Cơ Đốc nhân lao mình vào cái mà khi chỉ nhúng một ngón chân vào để dò dẫm sẽ cảm thấy như đó là chất nước lạnh lẽo, đắng cay, nhưng người ấy lại nhận thấy thoải mái, dễ chịu. Nhưng thế gian không phân biệt được đâu là ảo ảnh để có thể chọn lựa, cho nên vẫn sống trong hoài nghi.
HÃY TỰ BIẾT MÌNH
Thứ ba, Mười Điều Răn vạch rõ cho thấy chúng ta là hạng người như thế nào trước mặt Đức Chúa Trời, nghĩa là những kẻ vi phạm luật pháp đã bị lên án, những kẻ hi vọng duy nhất hoàn toàn nằm trong lòng nhơn từ thương xót và tha tội của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta đo cuộc đời chúng ta bằng luật pháp Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ nhận thấy cả sự công bình riêng lẫn sự tự mãn đều không thể có được, và chúng ta sa vào cảnh tuyệt vọng. Hậu quả việc đó tạo ra được các nhà Cải Chánh gọi là công dụng thứ hai của luật pháp. Trong RoRm 7:7-20, dựa vào kinh nghiệm bản thân, Phaolô đã nói cho chúng ta sự việc ấy đã xảy ra như thế nào. Luật pháp chiếu một tia sáng dò xét lên các động cơ thúc đẩy và các ước muốn của chúng ta (trường hợp Phaolô là lòng tham) và khiến chúng ta ý thức mình là một năng lực bất kể luật pháp - hầu như bạn có thể gọi nó là sự thúc đẩy của bản năng - tạo ra những động lực thúc đẩy, và những tham muốn đã bị cấm đoán tạo mãi những điều hão huyền “bắt tôi phải làm phu tù cho luật của tội lỗi, tức là luật ở trong chi thể tôi” (câu 23). Như vậy, bằng cách tự phơi bày cho chúng ta thấy mình bệnh hoạn và bị chết mất thuộc linh, luật pháp giúp chúng ta hoan nghinh phương thuốc chữa trị của Phúc âm Chúng ta hãy yêu mến ca hát và ngưỡng mộ
Hãy ca ngợi chúc tụng danh Cứu Chúa!
Ngài đã dập tắt ngọn lửa hừng tại Sinai
Đã tẩy sạch chúng con bằng huyết Ngài
Và trình dâng linh hồn chúng con lên Đức Chúa Trời!
Halêlugia!
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Luật pháp phơi bày tội lỗi như thế nào: RoRm 3:9-20 7:7-25
Luật pháp khích lệ các thánh đồ như thế nào: Thi Tv 119:1-176
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bạn giải thích thế nào việc Mười Điều Răn vẫn còn thích hợp cho thời hiện đại?
2. Tác giả ngụ ý gì khi bảo rằng các Điều Răn là bản tuyên ngôn công bố “một bộ luật về bản tính của chúng ta”?
3. Mười Điều Răn nói gì với chúng ta về vấn đề đó như thế nào, và hiện nay, bạn đang có ý định phải đối phó với nó như thế nào?
CHẤT XI MĂNG CỦA XÃ HỘI
Cho đến đây, chúng ta đã bàn về Mười Điều Răn như điều Đức Chúa Trời ngỏ lời với từng cá nhân (“ngươi"), do đó, Ngài cô lập hóa chúng ta khỏi đám đông, vì nếu không làm như vậy lý lịch của chúng ta sẽ bị chìm ngập. Ngài làm như thế, để đòi hỏi chúng ta phải chịu trách nhiệm cá nhân về cách chúng ta phản ứng với những gì Ngài phán. Đây là một quan điểm đúng về các điều răn, nhưng chưa phải là sự thật trọn vẹn. Vì từ ngữ “ngươi” Đức Chúa Trời dùng laần đầu tiên trong Xuất 20 và Phục truyền 5 ám chỉ cả tập thể dân Ysơraên là quốc gia gia đình Ngài đã mua chuộc ("Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời (các) ngươi, đã rút (các) ngươi ra khỏi..."). Và điều Ngài đã dạy đây là ý chỉ Ngài, không phải cho các cá nhân người Ysơraên, nhưng là cho toàn thể sinh hoạt cộng động của dân Ysơraên nữa.
Đây cũng là chân lý cho chúng ta, vì cũng chính là chân lý cho toàn thể nhân loại. Đức Chúa Trời đã tạo dựng chúng ta để sống trong các xã hội - gia đình, Hội Thánh, tổ chức chính trị, các cộng đồng kinh doanh và văn hóa - và Mười Điều Răn vạch rõ lý tưởng xã hội của Đức Chúa Trời, đồng thời với mục đích của Ngài cho từng cá nhân. Dĩ nhiên, theo các nhà Cải Chánh, xây dựng một xã hội có trật tự toàn hảo là công dụng đầu tiên của luật pháp, như chúng ta từng ghi nhận.
PHƯƠNG PHÁP ỔN ĐỊNH
Lý tưởng của Đức Chúa Trời là gì? Là một cộng đồng biết kính sợ Đức Chúa Trời, được nhận biết bằng việc thờ phượng chung với nhau (1,2,3), một nhịp điệu làm việc và nghỉ ngơi được mọi người chấp nhận (4), cộng thêm việc triệt để tôn trọng hôn nhân và gia đình (5,7), tài sản và quyền tự hữu (6,8), sinh mạng con người, và mọi người đều được phép đòi hỏi phải được bảo vệ (6) và được nói thật, được đối xử thành thật trong mọi mối quan hệ (9).
Xin đừng nghĩ rằng mối bận tâm của Đức Chúa Trời đối với các cộng đồng phải là thứ yếu, đứng sau mối bận tâm của Ngài đối với các cá nhân (là cách mà chúng ta vẫn thường quan tâm), vì trong Ngài, cả hai mối bận tâm ấy nguyên chỉ là một mà thôi. Điều này được thấy thật rõ ràng trong cách thức Cựu Ước, lập đi lập lại phần tóm tắt lời hứa của Ngài, là niềm hi vọng của dân Ysơraên, bằng một từ ngữ chứa đựng cả một gia tài đồ sộ, là Shalm. Shalom được dịch ra là “bình an”, theo nghĩa thật rộng, không những chỉ có nghĩa là được giải phóng khỏi chiến tranh, hoạn nạn, tội lỗi và vô đạo, nhưng còn có nghĩa là công bằng, thịnh vượng, tình thân hữu tốt đẹp và sức khỏe cũng như tất cả những điều an lành, phúc lợi chung, dưới bàn tay đầy ân huệ của Đức Chúa Trời.
Các Cơ Đốc nhân Tây phương hiện đại, quen sống trong các điều kiện của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu xa của cá nhân chủ nghĩa duy lý, luôn luôn bị lùng bùng lỗ tai những tiếng kêu gào của các nhà nhân bản học - theo họ toàn thể mục đích của xã hội chỉ nhằm mở rộng phạm vi chọn lựa của các cá nhân mà thôi - cho nên có thể sẽ rất khó phân biệt được tính cách nhất quán của mối bận tâm của Đức Chúa Trời đối với vấn đề cá nhân trong cộng đồng và cộng đồng trong các cá nhân. Nhưng đây chính là vấn đề của chúng ta. Nhiều thế hệ khác, đã có thể thấy nó, và trong Kinh Thánh vấn đề ấy rất rõ ràng.
Cho nên Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời thật ra là chất xi măng cho xã hội. Điều rõ ràng là hễ nơi nào các giá trị đó được thừa nhận (chẳng hạn xã hội Anh quốc trong quá khứ) các cộng động hòa nhập vào nhau, cả trong giới người đời đã sa ngã nữa, nhưng tùy theo tỷ lệ các giá trị ấy bị phủ nhận, xã hội cũng bị chia rẽ. Chúng ta có thể học hỏa được điều này, cả từ thế gian bị ngoại đạo hóa đầy dẫy bất công và loạn lạc như vương quốc miền Bắc của dân Ysơraên (các dấu vết đáng buồn ắt được tìm thấy trong câu chuyện của IVua 1V 12:1-33 IIVua 2V 17:1-24, và các sách tiên tri từ Amốt và Ôsê) lẫn trong những cuộc nổi dậy và chống nổi dậy đang tràn ngập thế giới hiện nay.
QUỐC GIA THẾ TỤC
Cho đến gần đây, phần lớn các dân tộc Tây phương đều tự cho là mình vẫn tiếp tục duy trì tinh thần Cơ Đốc giáo trung cổ - nghĩa là với tư cách những thực thể xã hội và chính trị tập họp được nếp sống theo các lý tưởng Cơ Đốc giáo, ít nhất cũng là trong ý hướng, chịu sự điều hiển và uốn nắn của Kinh Thánh. Nhưng hiện nay, lý tưởng ấy đã bị (quan niệm về) quốc gia thế tục chiếm mất chỗ - một cộng đồng không có tôn giáo hay ý thức hệ nào được xem là chính thức cả, trừ ra việc dành cho các công dân quyền tự do tối đa để theo đuổi bất luận các quyền lợi cá nhân nào mà họ có - dầu có tôn giáo hay không -
Sự thay đổi cứ xảy ra từ từ, cho nên vấn đề nảy sinh phần nào bị ngụy trang, giấu kín: nhưng điều quan trọng là phải làm sáng tỏ, phải vạch mặt chỉ tên nó ra. Nền văn minh Cơ Đốc giáo quan tâm đến sức khỏe, sự an vui và phẩm giá các cá nhân, vì sự hòa nhập vào chính quyền công cộng, vì một sinh hoạt gia đình trong đó các đòi hỏi của nữ giới và của trẻ con điều được tôn trọng, rõ ràng là một sản phẩm của Cơ Đốc giáo. Xã hội Tây phương hiện nay đang bận rộn để thế tục hóa các mối bận tâm ấy - nghĩa là tách rời chúng ra khỏi cái gốc trong lịch sử của chúng là trong đạo Cơ Đốc, và chối bỏ đạo ấy, xem như không còn là nền tảng thích hợp cho sinh hoạt cộng đồng nữa. Hiện nay, xã hội dường như đang rất bận tâm và thiết tha mong chờ một quan điểm về một thành phố trần tục nào đó sẽ là hình thức hiện đại của nước Đức Chúa Trời. Nhưng, quả thật bởi ân điển phổ cập của Đức Chúa Trời, những con người sa ngã vẫn thường xuyên tìm gặp những cái nhìn xuyên suốt (khôn ngoan) về phương diện luân lý đạo đức, các tiêu chuẩn và giá trị của Cơ Đốc giáo sẽ không thể nào tồn tại trong một xã hội đã đồng lòng bội đạo tập thể, xa lìa đức tin Cơ Đốc giáo.
SỰ PHÁN XÉT
Tại sao lại như vậy? Chẳng những chỉ vì phủ nhận các chân lý tuyệt đối của đạo tức là cũng chặt đứt các chân lý đạo đức tuyệt đối nữa (là việc mà xã hội chúng ta ngày nay đang làm), mà còn là vì sự băng hoại đạo đức và sự cùng khổ khốn nạn mà nó đem đến, vốn là một phần của sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với sự bội đạo. Phaolô nói: “Tại họ không lo nhìn biết Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã phó họ theo lòng hư xấu”, rồi ông tiếp tục liệt kê cả một bảng danh mục những tội ác ghê tởm, mà đọc lên, chúng ta thấy nó rất giống với bản tin tóm tắt của tờ nhật báo buổi sáng hiện nay (RoRm 1:28-31). Sự phóng túng mà chúng ta khoe khoang khoác lác hiện nay thật ra là một mặt của sự nguyền rủa của Đức Chúa Trời, như việc những kẻ ngu muội chẳng coi luật pháp ra gì vào thời của Giêrêmi vẫn tỏ ra hí hửng, vui mừng. Ai là người còn biết suy nghĩ, khi nhìn về phía trước, mà khỏi rùng mình kinh sợ?
Vậy, chúng ta phải nói gì về xã hội phàm tục hiện đại? Chúng ta có nên xem sự xuất hiện của nó như một dấu hiệu của sự tiến bộ chăng? Đúng hơn nó là một dấu hiệu của sự suy thoái là khởi điểm của sự tuột dốc, một dốc đá vô cùng hiểm trở mà dưới đáy là một vực sâu. Một khi các giá trị của cái lý tưởng duy nhất của cộng đồng là sự phóng túng ("mọi sự tôi đều có phép làm") tìm đâu cho luân lý đạo đức, một khi luật pháp của Cơ Đốc giáo đã bị phí bỏ đi? Làm thế nào để một chính sách quốc gia, có thể vùng dậy từ sự tự tư tự lợi vật chất, từ chủ nghĩa thực dân vô nguyên tắc? Làm sao tránh được sự sụp đổ bên trong khi những quyền lợi cục bộ, khi lòng tham không đáy của những kẻ không có chút gì là ý thức trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc, cứ đánh gục người này tiếp sau người khác? Làm sao tránh được việc hạnh phúc của tất cả mọi người đều bị giảm bớt đi, thậm chí bị tận diệt nữa, khi mà sự mặc khải về con đường hạnh phúc “Đức Chúa Trời trước nhất, thứ đến là tha nhân, bản thân ta sau cùng” của Mười Điều Răn, bị chối bỏ? Viễn ảnh thật đáng ghê tởm. Nguyện Đức Chúa Trời dắt đưa chúng ta quay về với chính Ngài, và trở về với sự khôn ngoan xã hội của các Điều Răn Ngài trước khi quá muộn
NGHIÊN CỨU THÊM KINH THÁNH
Năng động lực của xã hội phóng túng: RoRm 1:18-32
Phân tích một xã hội bội đạo: EsIs 1:1-31, 3:1-26, 5:1-30
CÁC CÂU HỎI ĐỂ SUY GẪM VÀ THẢO LUẬN
1. Bạn có đồng ý rằng Mười Điều Răn được dành cho cả các xã hội lẫn các cá nhân không? Tại sao có, tại sao không?
2. Thái độ của một xã hội đối với Mười Điều Răn có ảnh hưởng gì đến tương lai của nó không? Ảnh hưởng như thế nào?
3. Quốc gia thế tục đã đem gì vào để thay thế cho Mười Điều Răn? Kết quả ra sao?


Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc điểm

Phòng tối|Kinh thánh mp3. ISOM mp3, Nhạc thánh mp3 Liên lạc: mail: votong55@gmail.com. Zalo: 0362 222 482

GMT+8, 25-4-2024 06:16 AM

nguonsusong.com - Tin lành

Trả lời nhanh Lên trên Trở lại danh sách