|
Dâng hiến cho công việc Chúa
Phúc Âm Giăng
Tác giả: Peter Kuzmic
PHẦN MỘT: PHÚC ÂM GIĂNG
PHẦN MỞ ĐẦU: NGÔI LỜI TRỞ THÀNH XÁC THỊT
Phúc âm Giăng là sách Phúc âm độc đáo giữa vòng các sách Phúc âm ở phần giới thiệu về Chúa Cứu Thế Jesus. Giăng không cho chúng ta các bảng gia phả hoặc nói đến những hoàn cảnh xảy ra chung quanh sự giáng sinh bởi nữ đồng trinh của Chúa Cứu Thế. Song ông bắt đầu bằng một chân lý sâu nhiệm hơn hết về mặt thần học: "Ban đầu có Ngôi Lời (Logos) "Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời...Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta (GiGa 1:1, 14), Lời Hằng Sống, Con Đức Chúa Trời chính mình Đức Chúa Trời đã đến trong thế gian và trở thành một con người để Ngài có thể giải bày cho chúng ta Đức Chúa Trời là Đấng như thế nào, Ngài là Ngôi Lời trở thành con người.
Sự nhận biết Chúa Cứu Thế Jesus là con Đức Chúa Trời như bài Tín Điều Nience xác quyết: "Chính Đức Chúa Trời của chính Đức Chúa Trời" là điểm cốt lõi của giáo lý Cơ Đốc. Những thuộc tính của Ngài là các thuộc tính của Đức Chúa Trời. Những lời nói của Ngài là Lời của Đức Chúa Trời. Công việc Ngài làm là công việc của Đức Chúa Trời. Ngài chính là Đức Chúa Trời đã đến trong xác thịt để cư trú như một người giữa vòng loài người. Khi Ngài "đã trở thành xác thịt", Ngài cũng đã có tất cả những thuộc tính của con người ngoại trừ bản chất tội lỗi. Ngài vừa là con người hoàn toàn vừa là Đức Chúa Trời hoàn toàn. Đây là một khái niệm thần học chúng ta không giải thích được, song chúng ta biết là đúng thực Ngài đã được ban cho danh hiệu "Emmanuên" - nghĩa là "Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta" (Mat Mt 1:23)
Khi chúng ta nghiên cứu Phần Mở Đầu của Giăng trong bài học nầy, hãy xem xét một điều lạ lùng, đó là Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta đến nỗi chịu ban Con yêu dấu của Ngài là Ngôi Lời cho thế gian, hầu cho chúng ta có thể biết Ngài và tin Ngài. Chúng ta thấy thật khó mà tưởng tượng được làm sao ai có thể chối bỏ bằng cớ của tình yêu thiên thượng lớn lao đó; vậy mà đa số dân Ngài đã không hề nhận Ngài" (GiGa 1:11). Số đông vẫn từ chối món quà yêu thương của Ngài. Nhưng đối với những ai tiếp nhận Ngài thì Ngài ban ân điển vô hạn của Ngài cách rộng rãi - từ ân điển đến ân điển!
Mục đích Của Lời Mở Đầu
Ngôi Lời Và Đức Chúa Trời
Ngôi Lời và Sự Sáng Tạo
Ngôi Lời: Sự Sống và Sự Sáng
Ngôi Lời, Thế Gian và Con Người
Ngôi Lời Trở Thành Xác Thịt
Ngôi Lời Mặc Khải
Ngôi Lời Và Giăng Báptít
Khi học xong bài nầy, bạn có thể:
- Giải thích mục đích và những lẽ thật mang ý nghĩa thần học của Lời Mở Đầu của Phúc Âm Giăng.
- Thảo luận những ý nghĩa khác nhau của từ Logos và cách sử dụng từ nầy của Giăng cho nó một ý nghĩa đặc biệt.
- Nói được cách Giăng giới thiệu cốt truyện của sách Phúc âm của ông.
- Phân tích 1:14-18 và nói lên hàm ý về mối quan hệ giữa Ngôi Lời đối với thế gian và sự mặc khải về Đức Chúa Trời của Ngài.
- So sánh vai trò của Giăng Báptít và Chúa Cứu Thế Jesus
1. Đọc 1:1-18 nhiều lần. Nếu bạn có hơn một bản dịch, thì hãy đọc ở mỗi bản một lần và so sánh các bản dịch khác nhau. Cũng hãy đọc các trang 58-74 của Tenney khi được chỉ định đọc trong phần khai triển bài học.
2. Nghiên cứu qua bài học từng bước một theo kế hoạch học tập được cho trong phần sinh hoạt học tập ở Bài 1. Bảo đảm phải tra xem lời định nghĩa của bất cứ các từ ngữ then chốt nào mới lạ đối với bạn. Sau khi hoàn tất phần học tập của bạn ở phần khai triển bài học, hãy làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra lại các câu hỏi của bạn.
3. Ôn lại từ Bài 1 đến bài 3 để chuẩn bị cho phần đánh giá tiến bộ phần 1. Đọc trang chỉ dẫn trong tập học viên của bạn. Lấy tờ trả lời dành cho Đánh Giá Tiến Bộ Phần 1 ra, tuân theo các chỉ dẫn để điền vào tờ nầy, rồi nộp cho giảng viên ICI của bạn, là người sẽ kiểm tra các câu trả lời và cho bạn các kết quả.
thâm nhập khắp
sự hạ mình
sự vĩnh hằng
theo kinh nghiệm
bảng gia phả
sự thường tại
tính bất biến
MỤC ĐÍCH CỦA LỜI MỞ ĐẦU
Tenney 59-64; 1:1-18
Đến nay bạn đã đọc Lời Mở Đầu của Phúc âm Giăng nhiều lần, hãy so sánh phần mở đầu nầy với các đoạn đầu trong ba sách Tin lành cộng quan. Bạn sẽ để ý thấy các sách Cộng quan bắt đầu với nhiều khía cạnh khác nhau về nền tảng thuộc về thế gian, về con người của Chúa Jêsus, kể cả những việc như bảng phả hệ, cha mẹ, nơi được sinh ra..của Ngài. Sự chú trọng của Giăng mang tính thần học nhiều hơn và đồng nhất Chúa Jêsus với Lời đời đời hay Ngôi Lời, một tác nhân trong công cuộc sáng tạo, và là Đức Chúa Trời hóa thân làm người.
Sứ đồ Giăng bắt đầu bằng việc chú trọng đến địa vị của Chúa Jêsus trước khi Ngài trở thành một con người. Lời mở đầu kế đó tuyên bố rằng Đấng vốn hằng hữu và đã hoạt động trong công cuộc tạo dựng vũ trụ hiện đã hạ mình trong địa vị của một con người. Ngài đã thực hiện điều nầy để bắt một chiếc cầu giữa Đức Chúa Trời và loài người, giữa cõi đời đời và đời tạm.
Cấu trúc về mặt văn chương của Phần Mở Đầu thật là độc đáo. Một số các học giả tin rằng nó chứa đựng một bài thánh ca của những Cơ Đốc Nhân đầu tiên mà hình thức ban đầu của nó có thể đã được chia thành các khổ thơ như sau:
SỨ ĐIỆP CỦA PHẦN MỞ ĐẦU
NGÔI LỜI :(Lời (Logos), con Đức Chúa Trời, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời
TRỞ THÀNH XÁC THỊT :(được sinh ra làm người, Jesus người Naxarét)
ĐỂ MẶC KHẢI : (Để tỏ mình ra)
ĐỨC CHÚA TRỜI: Đức Chúa Cha
CHO LOÀI NGƯỜI: (Cho bạn, cho tôi và cho mọi người)
Như Tenney đã nói, sứ đồ Giăng trình bày một số các phương diện của Lời hoặc Ngôi Lời qua mối quan hệ của Ngài với vạn vật. Cách Giăng sử dụng chữ Logos (Lời) không giống với cách người Hylạp sử dụng từ nầy, song nó là một từ người ta có thể liên hệ đến. Những người Hylạp đã dùng danh từ nầy chỉ tỏ các khái niệm về lý lẽ và lời nói hoặc sự diễn tả. Tenney giải thích rằng các triết gia Hylạp được gọi là Stoics đã dùng danh từ nầy để biểu thị sự thâm nhập khắp của Đức Chúa Trời là Đấng vốn đã tể trị và ban ý nghĩa cho muôn vật" (62)
1. Tenney đồng nhất ba khái niệm có thể được áp dụng cho danh từ Logos theo tiếng Hylạp, đó là ba khái niệm nào?
..........................................................................................................................................
Rõ ràng tác giả của sách phúc âm thứ tư nầy đã quen thuộc với những hàm ý về mặt triết học và tôn giáo của từ Logos vì nó đã được dùng trong thời của ông. Cách sử dụng của ông không đòi hỏi phải có một sự thay đổi nào trong định nghĩa căn bản của danh từ nầy. Tuy nhiên có một sự khác biệt quan trọng giữa cách dùng từ Logos của người Hylạp với cách dùng của Giăng - một sự khác nhau về những sự biểu trưng. Đó là, Giăng dùng từ Logos (Ngôi Lời) để nói đến một Thân vị của Đức Chúa Trời, chứ không phải nói đến một ý tưởng trừu tượng. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng từ Ngôi Lời khi được dùng trong phúc âm Giăng là một khái niệm được vay mượn của người Hylạp đã được cho một ý nghĩa mới mẽ và lớn lao hơn, bởi vì sự biểu trưng của nó là Chúa Cứu Thế Jesus, Con đời đời của Đức Chúa Trời. Kinh thánh Nghiên Cứu NIV đưa ra lời giải thích sâu rộng hơn như sau về cách sử dụng từ Ngôi Lời:
Người Hylạp đã dùng danh từ nầy không những cho lời được nói ra mà còn cho cả lời chưa được nói ra nữa, là lời còn trong tâm trí-lý lẽ (hay sự suy luận). Khi họ áp dụng điều đó cho vũ trụ vạn vật, họ có ý nói về nguyên tắc hợp lý cai trị mọi vật. Trái lại, người Do Thái dùng từ nầy như là một cách để ám chỉ Đức Chúa Trời. Vì vậy Giăng đã dùng một từ thật có ý nghĩa đối với cả người Do thái lẫn các dân Ngoại bang (1985,1593)
2. Khoanh tròn mẫu tự đứng trước những câu ĐÚNG liên quan đến ý nghĩa của từ Ngôi Lời trong phần Mở Đầu của Giăng và lý do vì sao Giăng có khả năng đã chọn từ nầy để mô tả Đức Chúa Trời hóa thân làm người.
a. Cả người Hylạp lẫn người Hêbơrơ đều hiểu từ Ngôi Lời là có ý nói về Đức Chúa Trời.
b. Lời giải thích của Tenney về những hàm ý của người Hylạp về từ Ngôi Lời bao gồm ý tưởng cho rằng nó nói đến lời được nói ra lẫn lời chưa được nói ra (tức là ý nghĩ chưa được diễn tả, vẫn còn nằm trong tâm trí).
c. Giăng đã chọn từ Ngôi Lời như một sự mô tả về Đức Chúa Trời hóa thân làm người để nhấn mạnh rằng Chúa Jêsus đã phán ra những lời của Đức Chúa Trời.
d. Từ Ngôi Lời trong phần Mở Đầu của Giăng phải được xem như một ý tưởng trừu tượng có liên quan đến những lời của Đức Chúa Trời.
e. Từ Ngôi Lời trong Phần Mở Đầu của Giăng mô tả một Thân Vị chứ không phải một ý tưởng trừu tượng.
f. Một sứ điệp chính yếu của Phần Mở Đầu là Chúa Jêsus Con Đức Chúa Trời, đã trở thành một con người để tỏ cho chúng ta biết Đức Chúa Trời là Đấng như thế nào.
3. Hãy trả lời những câu hỏi liên quan đến Phần Mở Đầu của Phúc âm Giăng sau đây.
a. Trọng tâm của Phần Mở Đầu nầy khác với Phần Mở Đầu của các sách Cộng quan như thế nào?
.....................................................................................................................................
b. Nó nhấn mạnh điều gì về Chúa Cứu Thế Jesus?
.....................................................................................................................................
c. Mục đích của Giăng khi giới thiệu Chúa Cứu Thế Jesus là Ngôi Lời (Logos) là gì? ...............................................................................................................................
4. Giải thích sự khác nhau giữa khái niệm của Giăng về Ngôi Lời và những khái niệm theo truyền thống của người Hylạp
.........................................................................................................................................
F.F.Bruce nói rằng :"Từ ngữ đặc thù nhất trong Phần Mở Đầu, từ "Ngôi Lời không xuất hiện trở lại trong phần thân của Phúc âm Giăng theo ý nghĩa nó mang ở phần Mở Đầu...(Mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời với Ngôi Lời trong phần mở đầu tương đương với mối liên hệ giữa Đức Chúa Cha với Đức Chúa Con trong những bài viết của sách Phúc âm)" (1983,28,33). Ông nói tiếp:
Dầu vậy trong những gì nói về "Ngôi Lời", phần Mở Đầu cho chúng ta thấy một cái nhìn để từ đó sách Phúc âm Giăng như là một tổng thể phải được hiểu rõ: tất cả những gì được chép, từ hai bên bờ sông Giôđanh đến những lần hiện ra sau sự phục sinh, cho thấy lời đời đời của Đức Chúa Trời đã trở thành xác thịt như thế nào, để những người nam người nữ có thể tin nơi Ngài mà sống (1983,28).
NGÔI LỜI VÀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Tenney 64-65; GiGa 1:1
NHỮNG GÌ THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI, CŨNG THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA JÊSUS
NHỮNG THẦN TÁNH CỦA NGÀI
1. Sự Vĩnh Hằng (GiGa 17:5, 24 CoCl 1:15; HeDt 1:10-11)
2. Sự Toàn Tại (GiGa 3:13; Mat Mt 18:20)
3. Sự Toàn Tri (GiGa 2:24, 4:29, 16:30, 21:17; CoCl 2:2-3)
4. Sự Toàn Năng (GiGa 5:19; IPhi 1Pr 3:21-22; HeDt 1:3)
5. Sự Bất Biến (1:12, 13:8;)
6. Sự Thánh Khiết (Rôma 5:6-9, 18-19;; IPhi 1Pr 3:18)
7. Yêu Thương Trọn Vẹn (GiGa 3:16; CoCl 1:16; HeDt 1:8-12)
NHỮNG CHỨC VỤ TRONG CƯƠNG VỊ ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA NGÀI
1. Đấng Tạo Hóa (GiGa 1:3; CoCl 1:16; HeDt 1:8-12)
2. Đấng Bảo Tồn Muôn Vật (CoCl 1:17; HeDt 1:3)
NHỮNG ĐẶC QUYỀN THIÊN THƯỢNG
1. Tha Tội (Mat Mt 9:1-6; LuLc 7:47-50)
2. Gọi Kẻ Chết Sống Lại (GiGa 5:25-29)
3. Ban Sự Sống Đời Đời (10:10)
4. Thi hành sự đoán xét trên người công bình và không công bình (5:22, 28-30)
Kể từ bây giờ chúng ta sẽ dùng từ Ngôi Lời thay cho từ Hylạp Logos. Giăng bắt đầu phần Mở Đầu của ông bằng một lời tuyên bố ba mặt: 1) Ban Đầu Có Ngôi Lời; 2) Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và 3) Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Barrett viết rằng "Giăng có ý định để toàn bộ sách phúc âm của ông sẽ được đọc trong ánh sáng của câu Kinh thánh nầy. Những việc làm và lời nói của Chúa Jêsus chính là công việc và lời lẽ của Đức Chúa Trời; nếu điều nầy không đúng, thì quyển sách nầy là phạm thượng" (1978, 156). Chúa Jêsus Ngôi chính là Lời trở thành xác thịt, đã sở hữu tất cả những thuộc tính của Đức Chúa Trời. Bảng Kinh thánh Tân Anh ngữ diễn giải lời tuyên bố thứ ba trong Giăng 1:1; là "Những gì thuộc về Đức Chúa Trời thì cũng thuộc về Chúa Jêsus."
Từ ngữ thiên thượng chỉ về Đức Chúa Trời, bổn thể tối cao đời đời và là Tạo Hóa của muôn vật. Khung 3.2 tóm tắt những thuộc tính, những chức vụ và những đặc quyền trong thần tánh của Chúa Jêsus, và cho những đoạn Kinh thánh hậu thuẫn (Thiessen 1979, 92-93)
Tenney chia Giăng 11 thành ba lời tuyên bố của nó:
1. Ban đầu có Ngôi Lời : Đây là một lời tuyên bố về thuộc tính thiên thượng vĩnh hằng hay vĩnh cữu của Ngài - Ngài là Đấng đời đời, Ngài không có ban đầu cũng sẽ không có kết thúc. Bruce nói rằng:
Không phải tình cờ mà sách phúc âm nầy bắt đầu với một câu tương tự của sách Sángthếký. Trong SaSt 1:1 "Ban đầu" giới thiệu câu chuyện sáng tạo cũ; còn ở đây giới thiệu câu chuyện sáng tạo mới. Trong cả hai tác phẩm nói về sự sáng tạo, tác nhân đều là Lời của Đức Chúa Trời (1983, 28-29)
5. Tenney nói rằng "Ban đầu" trong Giăng 11 ám chỉ đến:
.........................................................................................................................................
2. Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời . Trong các bài nghiên cứu về thần học chúng ta đã học biết rằng Đức Chúa Trời không phải là một ý niệm trừu tượng của một quyền lực hoặc một trí năng siêu việt, mà Ngài là một hữu thể có thân vị với tất cả những đặc tính của một cá tính: lý trí, những sự nhạy cảm hay những tình cảm, và ý chí. Vì vậy Ngài liên hệ với chúng ta theo cách của một cá nhân. Ngôi Lời, Con Đức Chúa Trời đã ở cùng Cha Ngài trong cõi đời đời trước đó như một cá nhân "sống động, có tài trí, hoạt động" (Tenney 64).
6. Theo Tenney, lời khẳng định thứ hai trong GiGa 1:1 hàm ý rằng Ngôi Lời
a) Là một nguyên tắc khách quan
b) Trở thành hữu thể vào đúng một thời điểm đã được định
c) Chỉ được tồn tại trong lý trí của Đức Chúa Trời
d) Ngang hàng với Đức Chúa Trời và ở trong mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời
7. Bản diễn ý NEB nói rằng "Điều gì Đức Chúa Trời có, thì Chúa Jêsus có "có thể được hiểu với ý nghĩa rằng Ngôi Lời"
a) Có cùng bản thể và các thuộc tính như Đức Chúa Trời
b) Không phân rẽ với Đức Chúa Trời từ lúc ban đầu
c) Luôn luôn hiện diện trong mối liên hệ mật thiết với Đức Chúa Trời
d) Phán lời riêng của Ngài và làm các công việc riêng của Ngài tách biệt với Đức Chúa Trời.
3. Ngôi Lời là Đức Chúa Trời . Đây là một lời tuyên bố về thần tánh của Ngôi Lời. Chúa Jesus phán cùng các môn đồ của Ngài rằng "Ai thấy ta tức là đã thấy Cha...Những lời ta nói với các ngươi chẳng phải ta tự nói, ấy là Cha ở trong ta, chính Ngài làm trọn việc riêng của Ngài. Khi ta nói rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, thì hãy tin ta" (14:9-11)
8. Theo Tenney, điều nhấn mạnh liên quan đến Ngôi Lời trong mỗi câu sau là gì
a. "Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời"..........................................................................
b. "Ngôi Lời là Đức Chúa Trời"..................................................................................
NGÔI LỜI VÀ SỰ SÁNG TẠO
Tenney 65-66; 1:2-3
Như Tenne cho thấy, mặc dù 1:2 lập lại lời tuyên bố đầu tiên trong câu 1, song lời lập lại nầy nhấn mạnh đến sự tồn tại đời đời của Ngôi Lời và sự dự phần của Ngài với Đức Chúa Trời trong mọi hoạt động sáng tạo. Tenney giải thích rằng thì của động từ trong câu 3 cho thấy ý tưởng về sự hoạt động của Ngôi Lời trong công cuộc sáng tạo là một sự kiện, chứ không phải một quá trình (65)
Từ những câu Kinh thánh trên, chúng ta biết rằng Chúa Cứu Thế Jesus, Con đời đời của Đức Chúa Trời, chính là tác nhân để qua Ngài, Đức Chúa Cha đã tạo dựng muôn vật. Nghĩa là, mọi sự tồn tại tách biệt với Đức Chúa Trời - kể cả các hữu thể thần linh, vật chất, cõi vũ trụ thuộc về đời nầy, và loài người, đều được dựng nên bởi Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Con, một mình Đức Chúa Trời là đời đời. Sự phân biệt giữa vai trò của Cha và của Con trong sự sáng tạo được làm rõ trong ICo1Cr 8:6, tại đây Phaolô nói rằng:
Về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, chúng ta cũng vậy.
9. Tenney đưa ra minh họa nào sau đây nhằm giúp chúng ta hiểu được mối liên hệ giữa Cha và Con trong sự sáng tạo.
a) Một tôi tớ làm công việc chủ truyền bảo
b) Một người chủ xây cất một căn nhà
c) Một nhà thầu là tác nhân của vị chủ xây ngôi nhà
10. So sánh GiGa 1:2-3 với CoCl 1:15-16 và HeDt 1:1-2 những từ nào trong các câu Kinh thánh nầy khẳng định vai trò của Ngôi Lời trong sự sáng tạo?
a. CoCl 1:15-16
b. HeDt 1:1-2
Những từ then chốt cần lưu ý trong các phần trưng dẫn nầy là từ qua, bởi, và trong. Kết luận đơn giản của chúng ta, dựa trên lời tuyên bố của Giăng, đó là Đấng Christ, lời đời đời, chính là tác nhân của muôn vật. Vì vậy, lời giới thiệu của Giăng về Ngôi Lời là một hữu thể tồn tại và hoạt động trong sự sáng tạo ban đầu, là một lời giới thiệu phù hợp với câu chuyện sáng tạo mới sẵn dành cho mọi người qua Chúa Cứu Thế Jesus.
NGÔI LỜI: SỰ SỐNG VÀ SỰ SÁNG
Tenney 66-68; GiGa 1:4-5, 9
Ngôi Lời, Đấng đã có mặt từ ban đầu, là Đấng hoạt động trong công cuộc sáng tạo, hiện nay đang hướng sự chú ý của Ngài vào mỗi cá nhân chúng ta, trong bản thể của chúng ta và ở nơi chúng ta đang có mặt. Hãy lưu ý một loạt những từ then chốt được lập lại nhằm mô tả Chúa Cứu Thế trong các câu Kinh thánh nầy. Bạn cần hiểu được ý nghĩa của việc sử dụng các từ ấy trong sự liên hệ đến Chúa Cứu Thế.
Tenney nói rằng "Sự sống của LOGOS trong chính sự bày tỏ của nó đem lại sự soi sáng" (67). Nói cách khác, sự sống của Chúa Jêsus khi Ngài đi lại giữa vòng loài người đã đem lại sự sáng thuộc linh cho họ bởi vì sự sống ấy bày tỏ Đức Chúa Trời là Đấng thể nào. Hêbơrơ 13 nói rằng "Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bổn thể Ngài"
Những từ khác nhau được dùng trong nhiều bản dịch Thánh Kinh khác nhau về GiGa 1:5 để mô tả mối liên hệ giữa sự tối tăm với sự sáng. Những từ nầy cho thấy những gì liên quan đến sự sáng thì không có sự tối tăm :"Nhận lấy sự sáng"; "hiểu rõ sự sáng", "thắng bởi sự sáng", "nhận thức sự sáng"; "dập tắt sự sáng" "vùi dập sự sáng". Giăng nói về việc Chúa Jêsus đến thế gian qua các từ của sự sáng và sự tối tăm. Trong Kinh thánh, sự sáng và sự tối tăm luôn thù nghịch nhau. Đức Chúa Trời luôn luôn là sự sáng. Sự tối tăm không thể đánh bại sự sáng được. Bruce nói rằng "sự sáng và sự tối tăm chống nghịch nhau, nhưng chúng không đối nghịch nhau về sức mạnh ngang nhau. Vì sự sáng mạnh hơn sự tối tăm; tối tăm không thể thắng hơn sự sáng được" (1983, 34). Sự chiếu sáng thuộc linh được bày tỏ qua việc Chúa Jêsus đắc thắng bóng tối của tội lỗi và lòng vô tín.
11. Trong ngữ cảnh nầy, cụm từ diễn đạt mối quan hệ giữa sự tối tăm và sự sáng mà Tenney xem là thích hợp hơn là cụm từ nào? ..............................................................
.........................................................................................................................................
12. Đọc kỹ 1:4-5 và phần phân tích của Tenney về khúc Kinh thánh nầy. Sau đó hãy viết vào khoảng trống trước mỗi câu dưới đây chữ
A nếu câu ấy đồng ý với kết luận của Tenney về khúc Kinh thánh nầy.
B nếu câu ấy KHÔNG đồng tình với Tenney
...a Từ sự sống được dùng ở đây hàm ý sự sống đời đời
...b Chúa Jêsus là NGÔI LỜI được mang hình thể loài người
...c Tất cả những lần dùng từ sự sống trong Phúc Âm Giăng đều chỉ để ám chỉ sự tồn tại có ý thức.
...d Kết quả của việc Chúa Cứu Thế hóa thân làm người trong thế gian là sự sáng thuộc linh.
...f Sự tối tăm thuộc linh đôi khi có thể thắng hơn sự sáng thuộc linh
13. Câu 5 giới thiệu cốt truyện của Phúc âm Giăng như thế nào
.........................................................................................................................................
Điều thú vị là có thể dịch và giải thích câu 9 theo hai phương diện.
Hy văn gốc cho phép cụm từ "khi đến thế gian" bổ nghĩa cho "sự sáng thật" hoặc cho "mọi người". Vậy thì câu hỏi là: Sự sáng thật đã có trong thế gian để soi sáng mọi người đến trong thế gian, hay sự sáng thật đến trong thế gian để soi sáng cho mọi người? Nếu suy nghĩ kỹ điều nầy, bạn sẽ thấy rằng câu hỏi nầy có một ý nghĩa về mặt thần học. Ngữ cảnh dường như hậu thuẫn cho ý được Tenney chấp nhận rằng sự sáng thật (Chúa Jêsus) đã đến trong thế gian (sự hóa thân làm người) để bày tỏ Đức Chúa Trời cho mọi người.
14. Theo quan điểm của câu 6-8, lời nào sau đây giải thích rõ nhất ý nghĩa của cụm từ "sự sáng thật" trong câu 9?
a) Việc dùng từ thật ở đây nhằm làm tương phản với sự sáng giả dối hoặc sự sáng không thật.
b) Chúa Jêsus là sự sáng gốc; tất cả những người khác (kể cả Giăng Báptít) chỉ là ánh sáng phụ thuộc.
c) "sự sáng thật" trong ngữ cảnh nầy mô tả hết thảy các môn đồ của Chúa Jêsus, là những người có tâm trí được soi sáng bởi Chúa Jêsus
d) Chúa Jêsus là nguồn của mọi sự sáng thuộc linh
NGÔI LỜI, THẾ GIAN, VÀ CON NGƯỜI
Tenney 67-70; 1:10-13
Bản Nghiên Cứu Kinh thánh NIV nói lên sáu cách từ thế gian được dùng trong Phúc âm Giăng.
Từ nầy có thể ám chỉ vũ trụ, trái đất, con người sống trên đất, tất cả loài người, những người chống nghịch Đức Chúa Trời, hoặc hệ thống của loài người chống lại các mục tiêu của Đức Chúa Trời. Giăng nhấn mạnh từ nầy bằng cách lập lại, và thay đổi vị trí mà không hề giải thích từ ý nghĩa nầy sang ý nghĩa khác 1985, 1593).
Câu 10 ám chỉ cả vũ trụ được Đức Chúa Trời tạo dựng lẫn hệ thống loài người chống nghịch lại các mục tiêu của Đức Chúa Trời. Điều nầy phù hợp với quan điểm của Tenney cho rằng từ thế gian áp dụng cho môi trường vật chất và thuộc linh mà loài người sống trong đó. Hãy đọc lời giải thích của ông về sự tự hữu và sự vượt trỗi của Ngôi Lời khi liên quan đến thế gian. Sự tự hữu của Ngài hàm ý rằng Ngài đang hiện diện trong thế gian. Ngài đã dựng nên thế gian nhưng Ngài tách biệt với thế gian. Sự vượt trội của Ngài nói đến bổn thể của Ngài vượt lên trên hoặc vượt ra ngoài cõi vũ trụ hoặc sự tồn tại vật chất.
"Thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài" là câu cuối cùng trong câu 10. Tenney nói rằng sự kém hiểu biết của thế gian là cơ sở của sự khước từ và sự ghét bỏ của thế gian đối với Ngôi Lời (68). Có lẽ chúng ta hiểu được cả đoạn nầy cũng như mối liên hệ giữa Ngôi Lời với thế gian rõ ràng hơn nếu chúng ta suy xét sự kiện về một con người trọn vẹn như Ngài, bởi việc đến trong thế gian đã bày tỏ cho thấy hết thảy mọi người là bất toàn như thế nào.
15. Dựa trên 1:10 và lời luận của Tenney về câu nầy, hãy khoanh tròn mẫu tự đứng trước mỗi câu ĐÚNG
a. Ngôi Lời đã đến trong thế gian, tức là trong môi trường thuộc linh và vật chất của thế gian.
b. Cụm từ "Thế gian đã làm nên bởi Ngài" cho thấy Ngôi Lời chính là linh hồn của vũ trụ.
c. Những câu nầy cho thấy Ngôi Lời vừa tự hữu vừa siêu phàm
d. Thế gian thù ghét Ngài vì thế gian đã nhận biết Ngài là ai
e. Việc Ngôi Lời đến trong thế gian là bằng chứng cho thấy các lãnh vực vật chất và tâm linh đều có khả năng tiếp xúc.
f. Sự kiện Ngôi Lời đã vào trong khung sườn của đời sống trên đất và đã đảm nhận một vai trò chủ động trong thế gian khẳng định sự tự hữu của Ngài trong thế gian.
16. Dựa trên Tenney (68-69), hãy giải thích ý nghĩa của hai cụm từ sau đây trong câu 11:
a. "Ngài đã đến trong xứ mình" ...................................................................................
........................................................................................................................................
b. "Song dân mình chẳng hề nhận lấy"...........................................................................
Sự phân biệt nầy có lẽ không được rõ trong bản Kinh thánh của bạn, nhưng trong bản Hy văn gốc thì rất rõ. Chữ "xứ mình thuộc giống vô tính, ta idia, trong khi chữ thứ hai "dân mình thuộc giống đực, hoi idioi. Vì vậy, câu nầy có nghĩa là "Ngài đã đến trong quê hương mình, những vật thuộc về Ngài, nhưng dân Ngài đã chẳng mừng đón Ngài hoặc tiếp nhận Ngài". Hãy so sánh bất cứ các bản dịch với các bản diễn ý mà bạn có để thấy chúng làm rõ lên sự khác biệt ấy.
Khi chúng ta xem lại cụm từ "Ban đầu" thứ nhất (SaSt 1:1), chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên trái đất hầu cho Ngài có thể ở trong vườn Êđen với Ađam và Êva. Trái đất là nơi Ngài có thể "trú ngụ" cùng chúng ta. Từ ban đầu Ngài đã ao ước được ở với chúng ta. Không những thế gian đã được dựng nên bởi Ngôi Lời, mà nó còn được dựng nên vì Ngài nữa (CoCl 1:16). Song khi Ngài đến, chính dân Ngài, người Do thái, đã khước từ Ngài, và rồi người Lamã cũng vậy. Thế gian đã chối bỏ Ngôi Lời bởi sự thiếu hiểu biết, song chắc chắn nhiều người trong vòng dân sự Ngài đã bị định tội bởi sự sáng của Ngài (sự công bình của Đức Chúa Trời). Họ đã từ chối sự sáng nầy vì cớ nó tố cáo những việc làm gian ác của họ (GiGa 3:19) - Song, như câu 12 bày tỏ, không phải hết thảy dân Ngài đều đã chối bỏ Ngài.
17. Trong các bài trước chúng ta đã thấy con người phản ứng theo một trong hai cách khi họ đối diện trước sự thực hữu của Chúa Cứu Thế Jesus. Phản ứng nào được thấy trong câu 11 và 12?
a. Câu 11..........................................................................................................................
b. Câu 12.........................................................................................................................
Sự dạy dỗ nền tảng của câu 12 là những ai tiếp nhận Chúa Jêsus và tin nơi Ngài thì nhờ đó có được một chân tánh mới thật quan trọng: họ được trở nên con cái Đức Chúa Trời. Đó là quyền phép Chúa Jesus ban cho chúng ta được đổ đầy chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời, được trở nên con cái Ngài. Đức Chúa Trời là Cha đời đời, Ngài có một Con Trai. Và chúng ta cũng được kể là con cái của Đức Chúa Trời.
18. Điền vào những chỗ trống. Quyền được trở thành con cái Đức Chúa Trời là một sự...........................................của Đức Chúa Trời dành cho hết thảy những ai......................................................................................................................................
Tenney chỉ dành có hai câu trong câu thứ 13 (69-70). Ông nói rằng "những kẻ tin được ban sự sống của Đức Chúa Trời...bởi một sự ban cho của Đức Chúa Trời" Câu 13 là một lời tuyên bố về sự sinh lại ngắn hơn nhiều so với lời tuyên bố của Chúa Jêsus với Nicôđem trong GiGa 3:3-8, nhưng bởi sự nhấn mạnh của nó về ý muốn của Đức Chúa Trời, câu nầy bổ sung cho lời phán với Nicôđem.
Câu 13 giải thích cho câu 12, thật vậy, nó cho biết cách con người được gia nhập vào gia đình của Đức Chúa Trời. Đừng chậm hiểu sự ứng dụng của việc sanh lại cho đời sống của chính bạn. Những người đã tiếp nhận Chúa Jêsus bởi tin nhận Ngài cũng nhận được đặc quyền hoặc đặc ân để trở thành các thành viên trong gia đình của Đức Chúa Trời. Bản nghiên cứu Kinh thánh NIV giải thích cách điều nầy xảy ra như thế nào.
Tư cách thành viên trong gia đình Đức Chúa Trời có được chỉ do ân điển - đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời (xem Eph Ep 2:8-9). Điều nầy loài người không bao giờ nỗ lực mà được, như câu 13 đã nhấn mạnh, dầu vậy sự ban cho tặng phẩm nầy lại phụ thuộc vào sự đón nhận của loài người, như các từ "đã nhận" và "đã tin" làm rõ (1895,1953).
19. Đọc lời giải thích của Tenney về từ Hylạp (exousia) được dịch là "quyền phép" trong câu 12. Bởi sự cho phép của ai mà chúng ta được trở nên con cái Đức Chúa Trời, và bằng cách nào mà điều đó xảy ra?
NGÔI LỜI TRỞ THÀNH XÁC THỊT
Tenney 70-71: GiGa 1:14, 16-17; Phi Pl 2:5-11
Như Tenney cho thấy, câu 14 là tuyên bố quan trọng nhất của Phần Mở Đầu. Chính bởi việc Ngôi Lời đến trong thế gian trong xác thịt của loài người mà Ngài đã mặc khải được cho toàn thể loài người Đức Chúa Trời như thế nào và đã làm cho Chính Ngài trở nên sẵn sàng để đáp ứng với các nhu cầu của loài người. Bởi sự hóa thân làm người, Ngôi Lời (Chúa Jêsus) "đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ, và trở nên giống như loài người" (Phi Pl 2:7). Nói cách khác, Ngài sẵn sàng từ bỏ những đặc quyền thiên thượng của Ngài và đã trở thành một con người hầu cho Ngài có thể mặc khải Đức Chúa Cha như thế nào và khiến cho những nam và nữ tội nhân có thể trở thành con cái Đức Chúa Trời.
Phần Mở Đầu mặc khải về Ngôi Lời trong cõi đời đời, trong sự sáng tạo và trong sự hóa thân làm người và so sánh địa vị đời đời (câu 1-2) với địa vị con người tạm thời của Ngài (câu 14). Trong đó chúng ta thấy sự hạ mình cùng tận của Chúa Cứu Thế khi Ngài hạ mình để trở thành một con người để đáp ứng những nhu cầu của loài người.
Vào năm 450 S.C, một nhóm các giáo phụ của Hội Thánh đầu tiên nhóm họp tại Hội Nghị ở Chalceden để trình bày chính xác và rõ ràng một Lời Định Nghĩa về Sự Hóa Thân để cho chúng ta một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sự kiện trọng yếu nầy. Sau đây là lời định nghĩa của họ:
Chúa Cứu Thế Jesus chúng ta là Đức Chúa Trời hoàn toàn và là một người hoàn toàn, có cùng bản chất như Cha Ngài trong mọi sự về thần tánh của Ngài, tuy nhiên nhân tánh của Ngài giống như chúng ta trong mọi sự trừ sự phạm tội. Vì vậy, Chúa Jêsus được biết đến với hai bổn tánh: Đức Chúa Trời và loài người. Hai bản tánh nầy khác biệt nhau. Sự khác biệt nầy không bị tiêu diệt bởi sự hiệp nhất của chúng, song những nét độc đáo của mỗi bản tính vẫn được giữ vẹn.
Trong câu 14, cũng như ở những chỗ khác, Giăng sử dụng thành công ngôn từ rất đơn giản để dạy dỗ những lẽ thật sâu nhiệm về thần học. Nhưng thỉnh thoảng ông có đưa ra một hàm ý đặc biệt cho những từ bình thường. Hãy đọc lời giải thích của Tenney dành cho những sự diễn đạt nầy "sống một thời gian ngắn" (ở) "nhìn xem" (ngắm xem) và "ân phúc và chân lý" (ơn và lẽ thật)
20. Từ ngữ nào trong câu 14 có liên quan đến tính chất tạm thời của đền tạm trong Thời Cựu ước là nơi dân sự đã thờ phượng Đức Chúa Trời
..........................................................................................................................................
21. Điều gì được hàm ý trong những từ "đã ngắm xem"?
...........................................................................................................................................
Morris (1986,1718, 23-25) giải thích cụm từ "chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển Ngài" trong câu 14 không phải là điều có liên quan đến sự kiện hóa hình, như nhiều học giả Thánh Kinh kết luận, mà liên quan đến việc Giăng chứng kiến sự vinh hiển ở mọi nơi trong cuộc đời của Chúa Jêsus. Morris nói rằng, sự vinh hiển thật được tìm thấy trong sự phục vụ hạ mình. Sự chết của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá là sự phục vụ tận cùng và vì thế cũng là sự vinh hiển tận cùng. Lời giải thích khúc Kinh thánh nầy dường như cũng là quan điểm của Tenney vì ông nói rằng "NGÔI LỜI trở thành người đã được học tập dưới mọi điều kiện khả thi, thuận lợi lẫn bất lợi" (71). Các môn đồ đã xem xét học tập Chúa Cứu Thế từ ngày nầy sang ngày khác suốt thời kỳ Ngài thi hành chức vụ trên đất, kể cả sự chết và sự sống lại của Ngài, và trong mọi việc Ngài làm họ đã ngắm xem sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra.
Cụm từ cuối cùng trong câu 14 là "đầy ơn và lẽ thật" đến từ những thuật ngữ Hybá cũng có thể được dịch là "đầy tình yêu và sự thành tín không hề tàn phai" nhắc nhở chúng ta về tình yêu hy sinh và sự ngay thật trong lời dạy dỗ của Ngài.
Không những các môn đồ đã ngắm xem vinh hiển, ân điển và sự chân thật của Ngôi Lời, mà họ còn là những người đã tiếp nhận ân điển của Ngài nữa. Tenney nói rằng "ân điển của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ ra qua Chúa Cứu Thế và được dẫn truyền bởi kinh nghiệm cho các môn đồ của Ngài (71). Các câu 16-17 mở rộng ý tưởng nầy và bảo đảm với những độc giả như chúng ta, rằng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm sự cung ứng vô hạn của ân điển Ngài. Qua Ngài chúng ta đều có nhận được "ơn càng thêm ơn" hoặc từ ân điển nầy đến ơn phước khác. Cuối cùng, trong câu thứ 16 Giăng nhắc đến danh Chúa Cứu Thế Jesus lần đầu tiên để mô tả Ngôi Lời trở thành người.
22. Dựa trên phần ôn của Tenney về câu 14, bạn hãy tóm tắt ba sự thay đổi liên quan đến Logos hay Ngôi Lời đối với thế gian đã xảy ra khi Ngài hóa thân làm người. Hãy viết câu trả lời vào vở của bạn.
23. Lời giải thích "cắm trại" Tenney đưa ra mô tả sự việc nào sau đây trong sự hóa thân làm người của Ngôi Lời?
a) Việc Ngài sống trên đất là sự lâu dài
b) Việc Ngài sống trên đất là tạm thời, song là một sự kiện có thật trong lịch sử.
c) Việc Ngài đến thế gian là sự kiện có tính thuộc linh hơn là thuộc thể.
d) Sự đến của Ngài đã mặc khải sự siêu việt của Ngài nhiều hơn là sự tự hữu của Ngài.
24. Giải thích tính chất tăng dần của kinh nghiệm ân điển được cung ứng bởi Chúa Cứu Thế Jesus. ..............................................................................................................
.........................................................................................................................................
NGÔI LỜI MẶC KHẢI
Tenney 71-73; GiGa 1:18
Trong bản NIV câu 18 nói rằng "Chẳng hề có ai thấy Đức Chúa Trời, chỉ Con Một ở trong lòng Cha là Đấng giải bày Cha cho chúng ta biết"
Cụm từ "Con Một" cũng được dịch là "Con Độc Sanh" "Con Độc Nhất" "Đức Chúa Trời duy nhất" Tenney giải thích rằng khi các bản thảo đầu tiên được sao chép, các thầy ký lục nhiều khi có khuynh hướng làm cho đơn giản một bản văn khó để dễ hiểu hơn. Bạn hãy đọc cơ sở hợp lẽ theo cách dịch mà ông ta thích hơn.
25. Theo Tenney, cách dịch nào mô tả cụm từ Đấng ngồi bên Đức Chúa Cha được chứng minh bởi bằng chứng mạnh mẽ nhất?
.........................................................................................................................................
Chúng ta làm thế nào để giải thích lời tuyên bố "Chẳng hề có ai thấy Đức Chúa Trời" với những sự bày tỏ của Cựu ước về Đức Chúa Trời mà chúng ta gọi là những lần hiện ra của Đức Chúa Trời? Nhiều học giả Kinh thánh tin rằng sự hiển hiện của Đức Chúa Trời là những lần hiện ra của Đức Chúa Con trước khi Ngài hóa thân làm người. Bài học Kinh thánh NIV đưa ra lời giải thích sau:
Đôi lúc trong Cựu ước chép rằng người ta được bảo hãy ngó xem Đức Chúa Trời (xem XuXh 24:9-11). Song chúng ta cũng được bảo cho biết rằng không ai có thể thấy Đức Chúa Trời mà còn sống (33:20). Vì vậy, bởi vì không một người nào có thể thấy Đức Chúa Trời đúng như Ngài thật sự hiện hữu, cho nên những người đã thấy Đức Chúa Trời là thấy Ngài trong hình thể Ngài tạm mang lấy (1985,1593-4).
Bấy giờ, Giăng tuyên bố, Chúa Cứu Thế đã mặc khải Đức Chúa Cha. Con Người có thể biết Đức Chúa Cha qua sự mặc khải của Đức Chúa Con. Bruce nói rằng :"Chỉ có một Đấng hiểu biết Cha trọn vẹn, Đấng ấy có thể giải bày Ngài cách trọn vẹn (1938,45). Mặc dầu trước kia con người chưa hề nhìn thấy bổn thể của Ngài, nhưng tâm tánh thật của của Ngài "có thể được nhìn thấy trong Con Ngài, là Đấng giải bày trọn vẹn nhất về đời sống và tình yêu của Cha" (Tenney 72). Xuyên suốt phần ký thuật của ông trong sách Phúc âm Giăng tỏ rõ rằng Đức Chúa Cha được mặc khải trọn vẹn trong Con Ngài.
26. Cụm từ "Con Độc Sanh của Đức Chúa Trời" ám chỉ Ngôi Lời trong một số các thủ bản cổ nhất là lời xác nhận mạnh mẽ:
a) Thần tính của Chúa Cứu Thế
b) Sự độc nhất của Đức Chúa Trời
c) Sự sáng tạo của Ngôi Lời bởi Đức Chúa Trời
d) Sự mang nhục thể của Ngôi Lời
27. Bằng cách nào Chúa Cứu Thế Jesus có thể giải bày trọn vẹn Đức Chúa Cha cho con người? ......................................................................................................................
..........................................................................................................................................
NGÔI LỜI VÀ GIĂNG BÁP TÍT
Tenney 73-74; GiGa 1:6-8, 15
Bất cứ khi nào tên Giăng được nhắc đến trong phúc âm Giăng, nó đều ám chỉ Giăng Báptít chứ không phải vị môn đồ đã viết sách Giăng nầy. Hai phần trong đoạn Mở Đầu nói đến Giăng Báptít mặc khải ba điều về ông như sau: 1) nhân cách con người của ông, 2) năng lực của ông với tư cách người làm chứng, và 3) mối liên quan phụ thuộc của ông đối với Ngôi Lời. Tuy nhiên, sự xuất sắc thật sự của ông được nhìn thấy ở chỗ ông được Đức Chúa Trời sai đến như một nhân chứng về Đấng phải đến. Ông có một sứ mạng được Đức Chúa Trời bổ nhiệm.
Không giống với các sách Phúc âm Cộng quan, nhắc đến Giăng Báptít như một người rao giảng về sự ăn năn và làm báp tem cho dân chúng, Phúc âm Giăng chỉ đề cập đến chức năng làm chứng cho Chúa Jêsus của ông. Mục đích lời làm chứng của ông về Sự Sáng là để "qua ông mọi người đều tin Ngài" (câu 7). Giăng Báptít là phương tiện để chuẩn bị mọi người cho Đấng phải đến vượt trỗi hơn ông. Câu 8 đính chính bất cứ những ý nghĩ không đúng nào về con người của Giăng Báptít. Ông "không phải là Sự Sáng". Chính ông đã xưng nhận :"Đấng đến sau ta trỗi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta" (câu 15). Thực chất điều Giăng muốn nói là ông là loài người nhưng Chúa Cứu Thế là Đức Chúa Trời.
Phúc âm Giăng dành một khoảng đáng kể để nhấn mạnh rằng Giăng Báptít chỉ là phụ thuộc so với Đấng mà ông rao báo. Ông không bao giờ tỏ ra bất phục tùng đối với Chúa Cứu Thế; mà ông là tấm gương tuyệt vời cho chúng ta về một tôi tớ trung thành của Đức Chúa Trời. Vị giáo phụ vĩ đại Augustine đã diễn tả hùng hồn thái độ người cấp dưới chịu tòng phục của Giăng Báptít đối với Chúa Jêsus bằng những câu diễn ý lời tuyên bố của Giăng Báptít.
Tôi lắng nghe; vì Ngài là Đấng tuyên phán
Tôi được thắp sáng; vì Ngài là Nguồn Sáng
Tôi là lỗ tai; Ngài là Ngôi Lời
28. Hãy đọc lời giải thích của Tenney về vai trò của Giăng Báptít và trả lời những câu hỏi sau:
a. Phần Mở Đầu nhấn mạnh đến nhân phẩm con người Giăng Báptít như thế nào?
........................................................................................................................................
b. Vì sao Giăng làm chứng về Ngôi Lời?
.....................................................................................................................................
c. Mục đích lời chứng của ông là gì?
......................................................................................................................................
29. Giăng đã tuyên bố hai điều nào cho thấy vị trí thuộc cấp của ông khi so với Chúa Jêsus? .............................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Bài Tự Trắc Nghiệm
CÂU LỰA CHỌN - Khoanh tròn mẫu tự đứng trước câu trả lời đúng nhất của mỗi câu hỏi
1. Câu nào sau đây là sứ điệp chính của Phần Mở Đầu Phúc âm Giăng?
a) Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời
b) Giăng Báptít được Đức Chúa Trời sai đến để chuẩn bị thế gian cho Ngôi Lời trở thành người
c) Bởi vì Ngôi Lời đã trở thành xác thịt, nên chúng ta nhận được những ơn ban vô hạn từ nơi Đức Chúa Trời
d) Ngôi Lời đã trở thành xác thịt, để mặc khải Đức Chúa Trời cho loài người
2. Điều nào dưới đây KHÔNG phải là khái niệm của người Hylạp về danh từ Logos?
a) Nó là sự thông sáng nằm sau một ý tưởng
b) Nó diễn tả một người hơn là một ý tưởng trừu tượng
c) Nó là sự diễn tả một ý tưởng (ý tưởng chưa được nói ra)
d) Nó là một ý tưởng trừu tượng
3. Bởi việc giới thiệu Chúa Cứu Thế Jesus là Logos hay Ngôi Lời, Giăng đã xác lập
a) Thần tính của Ngài
b) Gia phả của Ngài
c) Sự dưới quyền của Ngài đối với Đức Chúa Trời
d) Vị trí của Ngài trong lịch sử loài người
4. Lời tuyên bố ba mặt của 1:1 tiết lộ rằng
a) Ngôi Lời là tạo vật đầu tiên của Đức Chúa Trời
b) Ngôi Lời đã tồn tại cùng với Đức Chúa Trời, nhưng không phải là Đức Chúa Trời
C) Điều gì thuộc về Đức Chúa Trời, cũng thuộc về Ngôi Lời.
d) Điều gì loài người có, thì Ngôi Lời có
5. 1:2 cho thấy rằng muôn vật đã được dựng nên
a) Ngôi Lời
b) Bởi Ngôi Lời
c) Vì Ngôi Lời
d) Không bởi Ngôi Lời
6. Khi giới thiệu về sự sáng và sự tối tăm, Giăng mặc khải rằng
a) Sự sáng thuộc linh và sự tối tăm thuộc linh là những đối thủ ngang quyền nhau
b) Sự tối tăm đôi khi thắng hơn sự sáng
c) Chúa Jêsus đem lại sự sáng thuộc linh bằng cách mặc khải Đức Chúa Trời là Đấng như thế nào
d) Loài người ở trong sự tối tăm vì họ không thể hiểu biết Đức Chúa Trời
7. Lời ám chỉ của Giăng về "sự sáng thật" trong 1:9 hàm ý rằng
a) Cũng có một sự sáng giả hoặc không thật
b) Giăng Báptít là sự sáng thật
c) Mọi sự sáng đều là sự sáng thật
d) Chúa Jêsus là nguồn sáng và hết thảy những người khác đều là ánh sáng phụ thuộc,
8. Câu nào sau đây KHÔNG diễn tả điều đã xảy ra khi Ngôi Lời đến trong thế gian?
a) Ngài đã đến trong xứ mình
b) Hầu hết dân Ngài đã hoan nghênh Ngài
c) Ngài là Đấng thường tại trong thế gian
d) Có nhiều người đã không nhận Ngài
9. Phản ứng của dân Ngài cho thấy nhiều người trong số họ
a) Đã chối bỏ Ngài vì thiếu hiểu biết
b) Đã có sự công bình rồi
c) Đã bị đoán xét bởi sự sáng của Ngài
d) Đã tiếp nhận Ngài mà không thắc mắc
10. Quyền được trở nên con cái Đức Chúa Trời là
a) Điều gì đó phải nỗ lực làm mới có được
b) Điều ban cho mọi người
c) Không liên quan trực tiếp đến sự hiện đến của Ngôi Lời
d) Sự ban cho của Đức Chúa Trời dành cho những ai tin nhận Con Ngài
11. Ngôi Lời trở thành nhục thể có nghĩa là Ngôi Lời
a) Bỏ qua những đặc quyền thiên thượng của Ngài để trở thành một con người.
b) Hoàn toàn là Đức Chúa Trời nhưng không hoàn toàn là người.
c) Hoàn toàn là con người chứ không hoàn toàn là Đức Chúa Trời.
d) Có một bản chất bao gồm một phần của Đức Chúa Trời và một phần của loài người.
12. Giăng Báptít KHÔNG được mô tả trong phúc âm Giăng như
a) Một sứ giả được Đức Chúa Trời sai đến
b) Người dưới quyền Chúa Cứu Thế
c) Sự sáng thật
d) Một người chuẩn bị dân sự cho sự hiện đến của Đấng Mêsia.
NHỮNG CÂU HỎI CỦA BÀI TIỂU LUẬN
Hãy trả lời mỗi câu hỏi trong chỗ trống cho sẵn
13. Hãy nói lên ý nghĩa được cho trong bài học nầy của cụm từ "Chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài"
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................................................
14. Qua Chúa Cứu Thế Jesus chúng ta nhận được "ơn càng thêm ơn" hoặc "ân điển tiếp theo ân điển". Điều đó có ý nghĩa gì?
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
15. Những thay đổi gì đã xảy ra với Thượng Đế thành người trong mối liên hệ giữa Ngôi Lời đến với thế gian?
......................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................
ĐÁNH GIÁ TIẾN BỘ PHẦN I
Đến nay bạn đã học xong Bài 1-3, hãy ôn lại ba bài nầy để chuẩn bị cho Đánh Giá Tiến Bộ Phần 1. Bạn sẽ tìm thấy nó và các tờ trả lời trong tập học viên của bạn. Hãy trở lời tất cả những câu hỏi nhưng đừng xem sách hướng dẫn học tập, sách giáo khoa, các ghi chú, hoặc Kinh thánh. Gởi các tờ trả lời của bạn cho giảng viên ICI của bạn, kèm với bất cứ các tài liệu nào khác được ghi ngoài bìa tập học viên của bạn. Sau đó hãy tiếp tục nghiên cứu bài 4.
Giải đáp các câu hỏi của bài học
1. Trí năng nằm sau một ý tưởng, chính mình ý tưởng đó, và sự bày tỏ có thể chuyển đạt được (ý tưởng có thể nói ra được)
2. b, c, e và f là những câu đúng
3. a Phương pháp của nó mang tính thần học nhiều hơn là tiểu sử hay lịch sử, nó chú trọng đến địa vị của Ngôi Lời trước khi làm người nhiều hơn là mô tả sự giáng sinh và gia phả của Chúa Jêsus.
b. Nó nhấn mạnh rằng Ngài là Lời đời đời, là Con độc sanh của Đức Chúa Trời
c. Mục đích của Ngài là chứng minh thần tánh của Chúa Cứu Thế- Ngài chính là Đức Chúa Trời của chính Đức Chúa Trời
4. Khái niệm của Giăng ám chỉ đến một Thân vị, trong khi các khái niệm theo truyền thống nói đến một ý tưởng trừu tượng.
5. Cõi đời đời vô hạn đi trước mọi thời gian
6. d) Ngang hàng với Đức Chúa Trời và ở trong mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời
7. a) Có cùng bản thể và các thuộc tính giống như Đức Chúa Trời
b) Luôn hiện diện trong mối liên hệ mật thiết với Đức Chúa Trời
8. a Điều nầy nhấn mạnh bổn tánh đời đời của Ngài và hàm ý rằng Ngài bằng với Đức Chúa Trời và thông công liên hiệp với Đức Chúa Trời
b) Ngôi Lời đã sở hữu bản tánh của Đức Chúa Trời và hằng bày tỏ bản tánh của Đức Chúa Trời. Điều gì thuộc về Đức Chúa Trời, thì cũng thuộc về Ngôi Lời.
9. c) Một nhà thầu khoán, là đại lý của vị chủ xây ngôi nhà.
10. a Muôn vật đã được dựng nên bởi Ngài và vì Ngài
b Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ bởi Con Ngài
11. Sự tối tăm không thể thắng hơn sự sáng
12. a A
b A
c A
d A
e A
f B
13. Nó giới thiệu sự tương phản giữa sự tối tăm thuộc linh với sự sáng thuộc linh.
14. b) Chúa Jêsus là nguồn sáng; tất cả những người khác đều là ánh sáng phụ thuộc.
d) Chúa Jêsus là nguồn của mọi sự sáng thuộc linh
15. a,c,e và f là những câu đúng
16. a Ngài đã đến trong quê hương mình
b Dân tộc Ngài đã chối bỏ Ngài
17. a Chối bỏ
b. Tiếp nhận
18. Ban cho, tin
19. Bởi sự ưng thuận của Ngôi Lời, Con Đức Chúa Trời, chúng ta trở nên con cái của Đức Chúa Trời khi chúng ta tin nhận danh Ngài.
20. "Ở" hoặc "sống một thời gian ngắn"
21. Chúng ta đã quan sát kỹ Ngài suốt một thời gian
22. Trước hết, Ngài "đã trở nên xác thịt, bày tỏ chính mình Ngài như một con người có thể được thấy, được nghe, và rờ đến được. Thứ hai, Ngài đã sống trên đất như một con người. Thứ ba, Ngài đã bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong Ngài cho hết thảy loài người.
23. b) Việc Ngài sống trên đất là tạm thời, sống là một sự kiện có thật trong lịch sử
24. Đó là một sự cung ứng ân điển vô hạn nhằm đáp ứng mỗi một nhu cầu của con người, từ ân điển nầy đến ân điển khác.
25. Cách dịch là "Con độc sanh của Đức Chúa Trời"
26. Thần tính của Chúa Cứu Thế
27. Điều nầy khả thi vì Ngài hiểu biết trọn vẹn Đức Chúa Cha. Có một sự hiểu biết trọn vẹn và yêu thương trọn vẹn giữa Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
28. a Qua lời tuyên bố trong câu 6 "có một người". In nghiêng do ý tác giả)
b. Bởi vì ông được Đức Chúa Trời sai đến; đây là một sứ mạng được Chúa giao.
c. Để giới thiệu NGÔI LỜI cho con người và chuẩn bị họ cho sự hiện đến của Ngài.
29. Ông đã thừa nhận rằng Chúa Cứu Thế có trước ông. Ông tuyên bố ân điển là lẽ thật đến từ Chúa Cứu Thế Jesus và Chúa Cứu Thế đã đến để giải bày Đức Chúa Trời cho con người.
|
|